loi, bai, hat, lời bài hát

Thứ Bảy, 11 tháng 10, 2014

Tính nhân văn trong tư tưởng hồ chí minh


     Tư tưởng nhân văn của Hồ Chí Minh lúc đầu thể hiện ở những yêu cầu nhân bản bao quát nhất. Đó là tư tưởng đòi lại cho con người  những gì mà nó vốn có, trước hết là quyền được sống theo nghĩa “người ta sinh ra ai cũng có quyền sống, quyền mưu cầu hạnh phúc”.
Đất nước Việt Nam - cái nôi của con rồng cháu tiên, phải để cho người Việt Nam được gọi là Tổ quốc, chứ không cần đến một “mẫu quốc” bên phương Tây xa xôi tới “khai hoá”! Đã là con người  thì ai cũng có quyền làm người, quyền tự do, quyền sống bình đẳng. Phải trả lại độc lập cho nhân dân Việt Nam để họ làm chủđất nước mình, tự mình xây dựng cuộc sống. Đưa con người trở về với chính con người, đó là tư tưởng nhân bản cơ bản đầu tiên được hình thành trong con người Hồ Chí Minh. Trên cơ sởđó, Người kêu gọi xoá bỏ nô lệ, áp bức, bần cùng, đối xử với con người như là Con Người chân chính.

     Tư tưởng nhân văn của Hồ Chí Minh được nâng lên tầm cao hơn khi ở Người hội tụ những tư tưởng tiến bộ toàn nhân loại, trong đó có các hệ tư tưởng nhân văn Phục hưng, Khai sáng. Đặc biệt, tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh chỉ thật sự trở thành lý luận khoa học, trở thành học thuyết vững chắc khi Người thấm nhuần tư tưởng cộng sản chủ nghĩa của các lãnh tụ thiên tài là C. Mác, Ph. Ăng-ghen và V. I. Lênin.

     Thấm nhuần tư tưởng nhân văn cộng sản chủ nghĩa, Hồ Chí Minh tự nguyện đứng vào hàng ngũ những người cộng sản quốc tế, chiến đấu hi sinh cho lý tưởng nhân văn cộng sản chủ nghĩa. Và thực tế, Người đãtrở thành một trong những chiến sĩđi tiên phong trong cuộc đấu tranh lật đổ chế độ xã hội cũ, xây dựng chếđộ xã hội mới trên phạm vi toàn thế giới. Người quan tâm đến số phận từng con người , vận mệnh từng dân tộc, từng quốc gia khắp năm châu. Cuộc cách mạng mà người theo đuổi là cuộc đấu tranh giai cấp, lật đổ giai cấp bóc lột, giải phóng giai cấp bị bóc lột, đưa loài người tiến đến một xã hội tốt đẹp. Tư tưởng Hồ Chí Minh vì thế có tầm giai cấp quốc tế, tầm nhân loại.

     Hồ Chí Minh tiếp thu một cách sâu sắc lý tưởng cộng sản chủ nghĩa, lấy nguyên lý của chủ nghĩa cộng sản để thực hiện lý tưởng nhân văn cụ thể của con người: xoá bỏ xã hội cũ thối nát và phản nhân đạo để xây dựng một xã hội mới màởđó, người với người làđồng chí, bạn bè, anh em, sống hoà bình, hợp tác, hữu nghị trong thế giới đại đồng. Chính vì vậy khi Quốc tế II phân hóa thành nhiều khuynh hướng khác nhau, Người đã chọn Quốc tế III, vì nóđề ra mục tiêu đúng với tư tưởng của Người là chống phong kiến, đế quốc, giải phóng dân tộc, mà thực chất là giải quyết vấn đề dân tộc và thuộc địa - vấn đề bức xúc nhất, bản chất nhất của cách mạng thế giới lúc bấy giờ.

     Giải quyết vấn đề dân tộc và thuộc địa, theo Hồ Chí Minh không phải là nhiệm vụ cuối cùng, mà là khâu đột pháđể tiến tới giải quyết vấn đề cách mạng thế giới. Giải phóng từng dân tộc làđiều kiện cho việc giải phóng tất cả các dân tộc thuộc địa; giải phóng giai cấp vô sản làđểđi đến xã hội cộng sản chủ nghĩa. Mục tiêu đó quán xuyến toàn bộ sự nghiệp cách mạng của Người. Đó cũng là nền tảng cho tinh thần đoàn kết giữa các dân tộc toàn nhân loại trên cơ sở chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa Quốc tế chân chính. Giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội và giải phóng con người, theo Người, cũng chỉ mới là tiền đềđể thực hiện mục tiêu thiêng liêng nhất của con người là phát triển toàn bộ bản chất người  với mọi phẩm chất tốt đẹp, với mọi tiềm năng và năng lực sáng tạo cũng như khả năng hưởng thụ cao các giá trị văn hoá do chính mình sáng tạo ra.

     Chính với quyết tâm thực hiện lý tưởng nhân văn đó, Hồ Chí Minh có một thái độ hết sức khoan dung, độ lượng, một tinh thần đoàn kết, hoà hợp. Phê phán phản đối tư tưởng biệt phái, chia rẽ các tín ngưỡng tôn giáo trong nước và trên thế giới, Người tiếp thu tất cả tinh hoa trí tuệ, ước mơ, khát vọng chân chính của nhân loại nhằm đạt tới mục đích cuối cùng làđem lại hạnh phúc cho nhân dân. Người đã hội tụ những tinh hoa của tất cả các tư tưởng nhân văn của nhân loại, từ tư tưởng Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín, Dũng, Trung, Hiếu của đạo Nho, tinh thần từ bi, cứu nhân độ thế, phấn đấu đạt tới sự sáng láng của đạo Phật, đến ước mơ vươn tới một xã hội cao đẹp, con người hoàn thiện của đạo Thiên chúa. Người đã chắt lọc ưu điểm trong các học thuyết của Khổng Tử, Thích ca Mâu ni, Tôn Dật Tiên, Giê-su… Đặc biệt người đã tìm thấy ở học thuyết Mac-Lênin  nhân sinh quan cộng sản chủ nghĩa. Người nhận thấy rằng, ở tất cả các vị tiền bối đều có chung một ưu điểm là mưu cầu hạnh phúc cho con người. Công lao đó của Người, tự nóđã thể hiện một tinh thần, một bản chất nhân văn lớn lao, cao cả, vì cuộc sống tốt đẹp của con người, vì hạnh phúc và tiến bộ của nhân gian.

     Tư tưởng nhân văn của Hồ Chí Minh còn thể hiện một cách đặc sắc ở khát vọng và tinh thần quyết tâm biến tư tưởng thành hiện thực. Cốt lõi của thế giới quan duy vật, phương pháp luận khoa học và nhân sinh quan cộng sản chủ nghĩa được Hồ Chí Minh chuyển hoá thành một tổ hợp tư tưởng Mác - Lênin - Hồ Chí Minh  , rồi nó lại được thăng hoa, biến thành một chất tư tưởng mới rất riêng, trong đó có sự hoà quyện giữa chiều sâu lý luận và sinh khí cuộc sống. Tiếp thu bản chất khoa học và cách mạng, tinh thần cải tạo thế giới của chủ nghĩa Mác- Lênin, Người thực hiện khát vọng cháy bỏng của mình là biến tình thương người , tình yêu cuộc sống thành hành động.

     Lòng nhân ái Hồ Chí Minh bao la rộng, lớn bao nhiêu đối với nhân loại thì cũng sâu nặng bấy nhiêu đối với con người, dân tộc Việt Nam. Nhận nhiệm vụ từ Quốc tế cộng sản, trở về Tổ quốc, Người dành tất cả tình thương yêu cho dân tộc Việt Nam. Khi trở thành lãnh tụ của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà , Người không màng danh lợi cá nhân, suốt đời chăm lo cho hạnh phúc của nhân dân, cho sự trường tồn của dân tộc và sự phát triển của đất nước. Tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh bao quát toàn bộ cách mạng Việt Nam là giải phóng dân tộc, đem lại độc lập tự do cho Tổ quốc, hạnh phúc cho nhân dân. Tư tưởng đóđược kết tinh thành một tuyên ngôn bất hủ không chỉđối với nhân dân Việt Nam mà còn đối với toàn thể loài người tiến bộ: Không có gì quý hơn độc lập, tự do.

Để thực hiện lý tưởng nhân văn đó, Hồ Chí Minh đã vạch ra con đường đúng đắn cho cách mạng Việt Nam là “ Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội”. Giải phóng dân tộc là mục tiêu số một khi đất nước còn nô lệ. Vì vậy ham muốn tột bậc của Người là “làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do”. Độc lập, tự do trở thành bản chất cao quý trong tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh, trở thành ngọn cờ chiến đấu và mục tiêu suốt đời hi sinh cống hiến của Người. Bởi vìđó làđiều kiện tiên quyết đem lại hạnh phúc và tiến bộ cho nhân dân Việt Nam.

     Lý tưởng nhân văn đó được Hồ Chí Minh biến thành mục tiêu của cách mạng Việt Nam là xây dựng xã hội mới- xã hội xã hội chủ nghĩa. Với sức mạnh khoa học của chủ nghĩa Mac- Lênin, với niềm tin sắt đá vào tương lai vàý chí quyết tâm của người cộng sản, Người đã lãnh đạo nhân dân Việt Nam lam nên những chiến công hiển hách. Tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh thấm sâu trong đường lối của Đảng, trở thành ngọn cờ hướng dẫn nhân dân ta làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954 chấn động địa cầu vàđại thắnng mùa xuân 1975 thần thánh.

Đất nước giành được độc lập, dân tộc giành được tự do,nhiệm vụ trọng tâm của dân tộc Việt Nam là xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đó là lô-gích tất yếu của lý thuyết phát triển theo hướng nhân văn, vì chủ nghĩa xã hội là xã hội phù hợp nhất với bản chất con người, là xã hội tốt đẹp nhất mà loài người hằng vươn tới. Xã hội xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Người lãnh đạo toàn dân xây dựng không phải là thứ chủ nghĩa xã hội cực đoan, hẹp hòi, vị kỷ của một giai cấp, một đảng phái nào. Mục tiêu và phương thức tiến hành xây dựng chủ nghĩa xã hội của Hồ Chí Minh cũng không chỉ là chuyên chính, phá bỏ, cũng không phải là một cái gìđó mơ hồ, không tưởng như nhiều người, nhiều đảng đương thời trên thế giới quan niệm. Đó là chủ nghĩa xã hội hiện thực, cụ thể gắn liền với dặc điểm lịch sử, truyền thống văn hoá và bản sắc dân tộc. Chủ nghĩa xã hội mà người lãnh đạo ở Việt Nam là một xã hội mới công bằng, nhân đạo và tốt đẹp, nhằm mục tiêu cụ thể là: dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, con người hạnh phúc.

     Sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội do Hồ Chí Minh lãnh đạo thực sự là một cuộc cách mạng giải phóng và phát triển mọi tiềm năng của dân tộc, của xã hội, cụ thể là giải phóng và phát triển con người. Người luôn quan niệm rằng: “ Nếu nước độc lập mà người dân không hưởng hạnh phúc tự do thìđộc lập cũng chẳng cóý nghĩa gì”. Chính tấm lòng nhân hậu Hồ Chí Minh đãđúc kết nên tư tưởng nhân văn của Người: con người không chỉđược giải phóng về mặt xă hội, mà chủ yếu và cuối cùng là giải phóng và phát triển toàn bộ bản chất và bản tính tốt đẹp của mình. Bản chất sâu xa, lớn lao trong tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh là, tất cảđều vì sự phát triển con người Việt Nam: xoá bỏ tha hoá, trả lại cho con người phẩm chất Người, giải phóng toàn bộ tiềm năng, thể chất, trí tuệ, tài năng sáng tạo của con người, tạo mọi điều kiện cho con người phát triển toàn diện - hài hoà vềđức - trí - thể - mỹ . Với tinh thần đó, Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến thanh, thiếu niên. Vì thanh niên là:” người chủ tương lai của nước nhà”,”nước nhà thịnh hay suy, yếu hay mạnh một phần lớn là do các thanh niên”. Người yêu cầu Chính phủ phải chúýđặc biệt tới việc giáo dục thanh, thiếu niên về thể dục, đức dục và trí dục.

     Một điểm đáng được lưu ý là, tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh có tính vượt thời đại, đó là sự tuyệt đối tin tưởng vào thắng lợi ngày mai, lo cho tương lai của đất nước. Trong chiến tranh ác liệt, vận mệnh đất nước lâm nguy, nhưng với nhãn quan duy vật biện chứng, Hồ Chí Minh đã thấy trước thắng lợi tất yếu của cách mạng Việt Nam. Người luôn nghĩ tới vàđặt kế hoạch cho sự phát triển tương lai của đất nước. Người có kế hoạch đào tạo nhân tài cho đất nước, kể cảđào tạo ở nước ngoài. Trong hoàn cảnh đời sống vật chất còn rất nhiều khó khăn, Người vẫn quan tâm xây dựng đời sống văn hoá, phát triển khoa học kỹ thuật. Đặc biệt, Người rất quan tâm tới xây dựng và phát triển đời sống tinh thần của nhân dân. Theo Người, giá trị thiêng liêng nhất, cao quý nhất và trường tồn nhất của con người chính là giá trị tinh thần. Càng lùi xa chiến tranh, lùi xa đời sống vật chất khó khăn, thiếu thốn của quá khứ, chúng ta càng thấy tư tưởng đó của Người làđúng đắn và sẽ mãi giữ nguyên giá trị

Tính nhân văn trong tư tưởng hồ chí minh

Thứ Sáu, 10 tháng 10, 2014

Tư tưởng hồ chí minh về xây dựng con người mới


1. Quan niệm của Hồ Chí Minh về con người

a. Con người được nhìn nhận như một chỉnh thể
- Con người được xem xét như chỉnh thể thống nhất về tâm lực, thể lực và các hoạt động của nó. Con người luôn có xu hướng vươn lên cái Chân - Thiện - Mỹ,
mặc dù “có thế này, thế khác”.
Hồ Chí Minh đề cập đến con người trong tính đa dạng: đa dạng trong quan hệ xã hội (quan hệ dân tộc, giai cấp, tầng lớp, đồng chí, đồng bào...); đa dạng trong tính cách, khát vọng, phẩm chất, khả năng, cũng như năm ngón tay dài ngắn khác nhau nhưng đều hợp lại nơi bàn tay; mấy mươi triệu người Việt Nam, có người thế này, thế khác, nhưng đều cùng là nòi giống Lạc Hồng; đa dạng trong hoàn cảnh xuất thân, điều kiện sống, làm việc...
- Hồ Chí Minh xem xét con người trong sự thống nhất của hai mặt đối lập: thiện và ác, hay và dở, tốt và xấu, hiền và dữ... Bao gồm tính người - mặt xã hội và tính bản năng - mặt sinh học của con người. Theo Hồ Chí Minh con người có tốt, có xấu, nhưng “dù là xấu, tốt, văn minh hay dã man đều có tình”.
b. Con người cụ thể, lịch sử
Hồ Chí Minh dùng khái niệm con người theo nghĩa rộng trong một số trường hợp (“phẩm giá con người”, “giải phóng con người”, “người ta”, “con người”, “ai”...) nhưng đặt trong một bối cảnh cụ thể và một tư duy chung, còn phần lớn, Người xem xét con người trong các mối quan hệ xã hội, giai cấp, giới tính, lứa tuổi, nghề nghiệp, trong khối thống nhất của cộng đồng dân tộc và quan hệ quốc tế. Đó là con người hiện thực, cụ thể, khách quan.
c. Bản chất con người mang tính xã hội
- Để sinh tồn, con người phải lao động sản xuất. Trong quá trình lao động, sản xuất, con người dần nhận thức được các hiện tượng, quy luật của tự nhiên, của xã hội; hiểu về mình và hiểu biết lẫn nhau… xác lập các mối quan hệ giữa người với người.
- Con người là sản phẩm của xã hội, con người là sự tổng hợp các quan hệ xã hội từ hẹp đến rộng, chủ yếu bao gồm các quan hệ: anh, em, họ hàng, bầu bạn, đồng bào, loài người.

2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về vai trò của con người và chiến lược trồng người

a. Quan điểm của Hồ Chí Minh về vai trò của con người
Ø Con người là vốn quý nhất, nhân tố quyết định thành công của sự nghiệp cách mạng
Theo Hồ Chí Minh, “trong bầu trời không có gì quý bằng nhân dân, trong thế giới này không có gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân”. Vì vậy, “vô luận việc gì đều do người làm ra, và từ nhỏ đến to, từ gần đến xa đều thế cả”. Người cho rằng “việc dễ mấy không có dân cũng chịu, việc khó mấy có dân liệu cũng xong”. Nhân dân là người sáng tạo ra mọi giá trị vật chất và tinh thần, dân ta là tài năng và trí tuệ, sáng tạo, họ biết “giải quyết nhiều vấn đề một cách giản đơn, mau chóng, đầy đủ mà những người tài giỏi, những đoàn thể to lớn, nghĩ mãi không ra”. Hồ Chí Minh có niềm tin vững chắc rằng với tinh thần quật cường và lực lượng vô tận của dân tộc ta, với lòng yêu nước và chí kiên quyết của nhân dân và quân đội ta, chẳng những chúng ta có thể thắng lợi, mà chúng ta nhất định thắng lợi. Nhân dân là yếu tố quyết định thành công của cách mạng. “Lòng yêu nước và sự đoàn kết của nhân dân là một lực lượng vô cùng to lớn, không ai thắng nổi”.
Ø Con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của cách mạng, phải coi trọng, chăm sóc, phát huy nhân tố con người
ñ Con người là mục tiêu giải phóng của sự nghiệp cách mạng.
- Mục tiêu của cách mạng: là giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng con người, thực hiện độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
- Con người là mục tiêu của cách mạng nên mọi chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng đều vì lợi ích chính đáng của con người. Có thể là lợi ích lâu dài, lợi ích trước mắt, lợi ích cả dân tộc, lợi ích của bộ phận, giai cấp, tầng lớp và các nhân. Với hoạt động thực tiễn thì việc gì có lợi cho dân, dù nhỏ mấy - ta phải hết sức làm. Việc gì hại cho dân - dù nhỏ mấy - ta phải hết sức tránh.
ñ Con người là động lực của cách mạng.
- Con người là động lực của cách mạng, được nhìn nhận trên phạm vi cả nước, toàn thể đồng bào, song trước hết là ở giai cấp công nhân và nông dân. Điều này có ý nghĩa to lớn trong sự nghiệp giải phóng dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Nhà nước mới lấy công - nông - trí làm nền tảng.
- Không phải là mọi người đều trở thành động lực, mà phải là những con người được giác ngộ và tổ chức. Họ phải có trí tuệ và bản lĩnh, văn hóa, đạo đức, được nuôi dưỡng trên nền truyền thống lịch sử và văn hoá của dân tộc Việt Nam… Chính trị, văn hóa, tinh thần là động lực cơ bản trong động lực con người.
- Con người là động lực chỉ có thể thực hiện được khi hoạt động có tổ chức, có lãnh đạo. Vì vậy, cần có sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.
- Giữa con người - mục tiêu và con người - động lực có mối quan hệ biện chứng với nhau. Càng chăm lo cho con người - mục tiêu tốt bao nhiêu thì sẽ tạo thành con người - động lực tốt bấy nhiêu. Ngược lại, tăng cường được sức mạnh của con người - động lực thì sẽ nhanh chóng đạt được mục tiêu cách mạng.
 Phải kiên quyết khắc phục kịp thời các phản động lực trong con người và tổ chức. Đó là chủ nghĩa cá nhân. Thứ vi trùng rất độc này đẻ ra hàng trăm thứ bệnh: thói quen truyền thống lạc hậu, tàn tích xã hội cũ để lại, bảo thủ, rụt rè không dám nói, không dám làm, không dám đề ra ý kiến, tóm lại không dám đổi mới và sáng tạo.
b. Quan điểm của Hồ Chí Minh về chiến lược “trồng người”
Ø “Trồng người” là yêu cầu khách quan, vừa cấp bách, vừa lâu dài của cách mạng    
 Trên cơ sở khẳng định con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của cách mạng. Hồ Chí Minh rất quan tâm đến sự nghiệp giáo dục, đào tạo và rèn luyện con người. Người nói đến “lợi ích trăm năm” và mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội là những quan điểm mang tầm vóc chiến lược, cơ bản, lâu dài, nhưng cũng rất cấp bách. Nó liên quan đến nhiệm vụ “trước hết cần có những con người xã hội chủ nghĩa” và “trồng người”. Tất cả những điều này phản ánh tư tưởng lớn về tầm quan trọng có tính quyết định của nhân tố con người; tất cả vì con người, do con người.
Con người được đặt vào vị trí trung tâm của sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước với nghĩa rộng, vừa nằm trong chiến lược giáo dục đào tạo theo nghĩa hẹp.
Ø “Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, trước hết cần có những con người xã hội chủ nghĩa”
- Con người xã hội chủ nghĩa đương nhiên phải do chủ nghĩa xã hội tạo ra.
- Mỗi bước xây dựng con người như vậy là một nấc thang xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đây là mối quan hệ biện chứng giữa “xây dựng chủ nghĩa xã hội” và “con người xã hội chủ nghĩa”.
- Quan niệm của Hồ Chí Minh về con người mới xã hội chủ nghĩa có hai mặt gắn bó chặt chẽ với nhau. Một là, kế thừa những giá trị tốt đẹp của con người truyền thống. Hai là, hình thành những phẩm chất mới: như có tư tưởng xã hội chủ nghĩa; có đạo đức xã hội chủ nghĩa; có trí tuệ và bản lĩnh để làm chủ; có tác phong xã hội chủ nghĩa; có lòng nhân ái, vị tha, độ lượng. 
c. Chiến lược “trồng người” là một trọng tâm, một bộ phận hợp thành của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội
- Để thực hiện chiến lược “trồng người”, cần có nhiều biện pháp, nhưng giáo dục - đào tạo là biện pháp quan trọng nhất. Bởi vì, giáo dục tốt sẽ tạo ra tính thiện đem lại tương lai tươi sáng cho thanh niên. Ngược lại, giáo dục tồi sẽ ảnh hưởng xấu đến thanh niên.
- Nội dung và phương pháp giáo dục phải toàn diện, cả đức, trí, thể, mỹ, phải đặt đạo đức, lý tưởng và tình cảm cách mạng, lối sống xã hội chủ nghĩa lên hàng đầu. Hai mặt đức, tài thống nhất với nhau, trong đó đức là gốc, là nền tảng cho tài năng phát triển. Phải kết hợp giữa nhận thức và hành động, lời nói với việc làm... có như vậy mới có thể “Học để làm người”.
“Trồng người” là công việc “trăm năm”, không thể nóng vội “một sớm một chiều” không phải làm một lúc là xong, cũng không phải tùy tiện đến đâu hay đến đó.  Nhận thức và giải quyết vấn đề này có ý nghĩa thường trực, bền bỉ trong suốt cuộc đời mỗi con người, suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Hồ Chí Minh cho rằng: “việc học không bao giờ cùng, còn sống còn phải học”.

KẾT LUẬN

            Hồ Chí Minh được cả thế giới tôn vinh là nhà văn hóa kiệt xuất, không chỉ vì Người đã sáng tạo ra một thời đại mới và một nền văn hóa mới ở Việt Nam mà còn vì những sự đóng góp mới của Người vào lý luận và sự phát triển chung của văn hóa nhân loại
- Trong lĩnh vực văn hóa, Hồ Chí Minh đã sớm nhận thấy vai trò và sức mạnh của văn hóa, đã sớm đưa văn hóa vào chiến lược phát triển của đất nước.
- Trong lĩnh vực đạo đức, Hồ Chí Minh đã có những đóng góp rất đặc sắc vào tư tưởng  đạo đức macxit. Những đóng góp đó đã nâng Người lên vị trí một nhà đạo đức học lỗi được thế giới thừa nhận.
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người mới có giá trị lý luận và thực tiễn rất quan trọng:
Về lý luận: có nội dung sâu sắc và mới mẻ, có ý nghĩa rất quan trọng đối với sự nghiệp GD, ĐT con người Việt Nam. Trên cơ sở quan triệt quan điểm GD đạo lý để làm người, coi con người là vốn quý nhất, chăm lo hạnh phúc của con người là mục tiêu phấn đấu cao nhất của chế độ ta, con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự nghiệp cách mạng XHCN. Đảng ta xác định GD và ĐT là quốc sách hàng đầu.
Về thực tiễn: sự phát triển con người đã trở thành tiêu chí ngày càng quan trọng trong việc xếp hạng các nước trên thế giới. Dưới ánh sáng của tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta nhấn mạnh việc chăm lo cho hạnh phúc của con người là mục tiêu phấn đấu cao nhất của chế độ ta.
Tư tưởng về văn hóa, đạo đức và xây dựng con người mới là một bộ phận rất quan trọng trong hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh. Nghiên cứu và học tập theo tấm gương  đạo đức Hồ Chí Minh không chỉ đơn thuần là vấn đề nhận thức, mà còn là trách nhiệm chính trị của các dân tộc, nhằm xây dựng Việt Nam thành một quốc gia văn minh trong thời kỳ hội nhập quốc tế.

Tư tưởng hồ chí minh về xây dựng con người mới

Tư tưởng hồ chí minh về đạo đức


1. Nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức

a. Quan điểm về vai trò và sức mạnh của đạo đức
 Đạo đức là cái gốc của người cách mạng

Hồ Chí Minh khẳng định đạo đức là nguồn nuôi dưỡng và phát triển con người, như gốc của cây, ngọn nguồn của sông suối. Người nói: “Cũng như sông thì có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân”.
- Làm cách mạng là để cải tạo xã hội cũ thành xã hội mới là một sự nghiệp rất vẻ vang, nhưng nó cũng là một nhiệm vụ rất nặng nề, “Sức có mạnh mới gánh được nặng và đi được xa. Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng, mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang”.
- Trong điều kiện Đảng cầm quyền, Người trăn trở với nguy cơ xa rời cuộc sống, xa rời quần chúng, rơi vào thoái hóa biến chất của Đảng. Vì vậy, Hồ Chí Minh yêu cầu Đảng phải “là đạo đức, là văn minh”. Người nhắc lại ý của Lênin: Đảng Cộng sản phải tiêu biểu cho trí tuệ, danh dự, lương tâm của dân tộc và thời đại. Trong Di chúc, Người căn dặn: “Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”.
- Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh là đạo đức trong hành động, lấy hiệu quả thực tế làm thước đo. Chính vì vậy, Hồ Chí Minh luôn đặt đạo đức bên cạnh tài năng, gắn đức với tài, lời nói đi đôi với hành động và hiệu quả trên thực tế. Người nói: “hãy kiên quyết chống bệnh nói suông, thói phô trương hình thức, lối làm việc không nhằm mục đích nâng cao sản xuất”.
- Trong tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh, đức và tài, hồng và chuyên, phẩm chất và năng lực thống nhất làm một. Trong đó: đức là gốc của tài; hồng là gốc của chuyên; phẩm chất là gốc của năng lực. Tài là thể hiện cụ thể của đức trong hiệu quả hành động.
 Đạo đức là nhân tố tạo nên sức hấp dẫn của chủ nghĩa xã hội
Sức hấp dẫn của chủ nghĩa xã hội trước hết thể hiện ở những giá trị đạo đức cao đẹp, ở phẩm chất của những người cộng sản ưu tú, bằng tấm gương sống và hành động của mình, chiến đấu cho lý tưởng đó trở thành hiện thực.
Phong trào cộng sản và công nhân quốc tế trở thành lực lượng quyết định vận mệnh của loài người không chỉ do chiến lược và sách lược thiên tài của cách mạng vô sản, mà còn do những phẩm chất đạo đức cao quý làm cho chủ nghĩa cộng sản trở thành sức mạnh vô địch.
Tấm gương đạo đức trong sáng của Hồ Chí Minh chẳng những có sức hấp dẫn lớn lao, mạnh mẽ với nhân dân Việt Nam, mà còn cả với nhân dân thế giới. Tấm gương đó từ lâu đã là nguồn cổ vũ động viên tinh thần quan trọng đối với nhân dân ta và nhân loại tiến bộ đoàn kết đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội.
b. Quan điểm về những chuẩn mực đạo đức cách mạng
            Ø Trung với nước, hiếu với dân
 “Trung” và “hiếu” là những khái niệm cũ trong tư tưởng đạo đức truyền thống Việt Nam và phương Đông, phản ánh mối quan hệ lớn nhất và cũng là phẩm chất đạo đức bao trùm nhất: “Trung với vua, hiếu với cha mẹ”.
Hồ Chí Minh mượn khái niệm đạo đức “trung”, “hiếu”  trong tư tưởng đạo đức truyền thống dân tộc và đưa vào đó một nội dung mới: “Trung với nước, hiếu với dân”, tạo nên một cuộc cách mạng trong quan hệ về đạo đức. Người nói “Đạo đức cũ như người đầu ngược xuống đất chân chổng lên trời. Đạo đức mới như người hai chân đứng vững được dưới đất, đầu ngửng lên trời”.
Theo Hồ Chí Minh, trung với nước phải gắn liền hiếu với dân. Vì nước là nước của dân, còn dân lại là chủ nhân của nước; bao nhiêu quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân, bao nhiêu lợi ích đều vì dân, cán bộ là đày tớ của dân chứ không phải là “quan cách mạng”.
Trung với nước là tuyệt đối trung thành với sự nghiệp dựng nước và giữ nước, trung thành với con đường đi lên của đất nước; là suốt đời phấn đấu cho Đảng, cho cách mạng. Hiếu với dân thể hiện ở chỗ thương dân, tin dân, phục vụ nhân dân hết lòng. Để làm được như vậy phải gần dân, kính trọng và học tập nhân dân, phải dựa vào dân và lấy dân làm gốc. Đối với cán bộ lãnh đạo, Hồ Chí Minh yêu cầu phải nắm vững dân tình, hiểu rõ dân tâm, thường xuyên quan tâm cải thiện dân sinh, nâng cao dân trí.
            Ø Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư
Đây là những khái niệm đạo đức cũ được Hồ Chí Minh tiếp thu, chọn lọc và đưa vào đó những yêu cầu và nội dung mới. Người chỉ ra rằng trong chế độ phong kiến có nêu ra cần, kiệm, liêm, chính, nhưng không bao giờ thực hiện, ngày nay ta đề ra cần, kiệm, liêm, chính cho cán bộ thực hiện, làm gương cho nhân dân để đem lại hạnh phúc cho dân. Đây là biểu hiện sinh động của phẩm chất “trung với nước, hiếu với dân”.
- Cần: siêng năng, chăm chỉ, lao động có kế hoạch, có hiệu quả, có năng suất cao với tinh thần tự lực cánh sinh.
-  Kiệm: tiết kiệm (tiết kiệm thời gian, công sức, của cải) của nước, của dân, không xa xỉ, không hoang phí, không bừa bãi, không phô trương hình thức, không liên hoan, không chè chén lu bù.
-  Liêm: luôn tôn trọng của công và của dân. Phải “trong sạch, không tham lam” tiền của, địa vị, danh tiếng.
- Chính: thẳng thắn, đứng đắn, không gian tà. Được thể hiện thông qua ba mối quan hệ: với mình, với người, với việc.
Mối quan hệ và sự cần thiết phải có các đức tính trên:
- Các đức tính đó có quan hệ chặt chẽ với nhau, ai cũng phải thực hiện, song cán bộ, đảng viên phải là người thực hành trước để làm kiểu mẫu cho dân.
- Cần, kiệm, liêm là gốc rễ của chính, nó rất cần thiết cho mọi người. Đặc biệt là đối với cán bộ, đảng viên vì nó ảnh hưởng trực tiếp đến công việc chung của cách mạng.
- Cần, kiệm, liêm, chính là thước đo sự giàu có về vật chất, vững mạnh về tinh thần, văn minh tiến bộ của dân tộc, là nền tảng của đời sống mới, thi đua yêu nước, là cái cần để “làm việc, làm người, làm cán bộ, để phụng sự Tổ quốc”.
“Trời có bốn mùa: Xuân, Hạ, Thu, Đông.
Đất có bốn phương: Đông, Tây, Nam, Bắc.
Người có bốn đức: Cần, Kiệm, Liêm, Chính.
Thiếu một mùa thì không thành trời.
Thiếu một phương thì không thành đất.
Thiếu một đức thì không thành người”.
- Chí công vô tư: là công bằng, công tâm, không thiên tư, thiên vị, làm việc gì cũng không nghĩ đến mình trước, chỉ biết vì Đảng, vì dân tộc, “lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ”. Thực hành chí công vô tư là nêu chủ nghĩa tập thể, trừ bỏ chủ nghĩa cá nhân.
Ø Thương yêu con người, sống có tình nghĩa
Yêu thương con người được Hồ Chí Minh xác định là một trong những phẩm chất đạo đức cao đẹp nhất. Vì yêu thương nhân dân, yêu thương con người mà chấp nhận mọi gian khổ, hy sinh để đem lại độc lập, tự do, cơm no, áo ấm và hạnh phúc cho con người.
Tình yêu thương đó là một tình cảm rộng lớn, trước hết dành cho những người nghèo khổ, những người bị mất quyền, bị áp bức, bị bóc lột, không phân biệt màu da, dân tộc. Người cho rằng nếu không có tình yêu thương như vậy thì không thể nói đến cách mạng, càng không thể nói đến chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản.
Tình yêu thương con người phải được xây dựng trên lập trường giai cấp công nhân, thể hiện trong mối quan hệ hàng ngày với bạn bè, đồng chí, anh em... Nó đòi hỏi mỗi người phải chặt chẽ và nghiêm khắc với mình; rộng rãi, độ lượng, giàu lòng vị tha với người khác. Nó đòi hỏi thái độ tôn trọng những quyền của con người, nâng con người lên, kể cả những người nhất thời lầm lạc chứ không phải là thái độ dĩ hòa vi quý, không phải hạ thấp càng không phải vùi dập con người.
Người dạy: “Hiểu chủ nghĩa Mác - Lênin là phải sống với nhau có tình, có nghĩa. Nếu thuộc bao nhiêu sách mà sống không có tình có nghĩa thì sao gọi là hiểu chủ nghĩa Mác - Lênin được”. Trong Di chúc, Người căn dặn: “Phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau”.
Ø Có tinh thần quốc tế trong sáng
Chủ nghĩa quốc tế là một trong những phẩm chất quan trọng nhất của đạo đức cộng sản chủ nghĩa. Nó bắt nguồn từ bản chất giai cấp công nhân, nhằm vào mối quan hệ rộng lớn vượt ra khỏi phạm vi quốc gia dân tộc.
Nội dung chủ nghĩa quốc tế trong tư tưởng Hồ Chí Minh rất rộng lớn và sâu sắc. Đó là sự tôn trọng, hiểu biết, thương yêu và đoàn kết với giai cấp vô sản toàn thế giới, với tất cả các dân tộc và nhân dân các nước, với những người tiến bộ trên toàn cầu, chống lại mọi sự chia rẽ, hằn thù, bất bình đẳng và phân biệt chủng tộc; chống lại chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, sôvanh, biệt lập và chủ nghĩa bành trướng bá quyền… Hồ Chí Minh chủ trương giúp bạn là tự giúp mình.
Đoàn kết quốc tế nhằm thực hiện những mục tiêu lớn của thời đại là hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội, là hợp tác và hữu nghị theo tinh thần: bốn phương vô sản, bốn bể đều là anh em. Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, Hồ Chí Minh đã dày công xây đắp tình đoàn kết hữu nghị giữa nhân dân Việt Nam và nhân dân thế giới. Đã tạo ra một kiểu quan hệ quốc tế mới: đối thoại thay cho đối đầu, nhằm kiến tạo một nền văn hóa hòa bình cho nhân loại.
c. Quan điểm về những nguyên tắc xây dựng đạo đức mới.
Ø Nói đi đôi với làm, phải nêu gương về đạo đức
Hồ Chí Minh coi đây là nguyên tắc quan trọng bậc nhất trong xây dựng một nền đạo đức mới.
Nói đi đôi với làm là đặc trưng bản chất của tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh - đạo đức cách mạng. Nói đi đôi với làm đối lập hoàn toàn với thói đạo đức giả của giai cấp bóc lột, nói một đằng làm một nẻo, thậm chí nói mà không làm.
Nêu gương về đạo đức là một nét đẹp của truyền thống văn hoá phương Đông. Nói đi đôi với làm phải gắn liền với nêu gương về đạo đức. Hồ Chí Minh đã có lần chỉ rõ: “Nói chung thì các dân tộc phương Đông đều giàu tình cảm, và đối với họ một tấm gương sống còn có giá trị hơn một trăm bài diễn văn tuyên truyền”. Với ý nghĩa đó, Hồ Chí Minh đã đào tạo các thế hệ cán bộ cách mạng Việt Nam không chỉ bằng lý luận cách mạng tiên phong, mà còn bằng chính tấm gương đạo đức cao cả của mình.
Đạo đức cách mạng phải đặc biệt chú trọng đến “đạo làm gương”. Phải chú ý phát hiện, xây dựng những điển hình người tốt, việc tốt rất gần gũi trong đời thường, trong mọi lĩnh vực lao động sản xuất, trong chiến đấu, trong học tập… bởi theo Người, từng giọt nước chảy về một hướng mới thành suối, thành sông, thành biển cả. Không nhận thức được điều này là “chỉ thấy ngọn mà quên mất gốc”. Người nói: “Người tốt, việc tốt nhiều lắm. Ở đâu cũng có. Ngành nào, giới nào, địa phương nào, lứa tuổi nào cũng có”.
Như vậy, một nền đạo đức mới chỉ có thể được xây dựng trên một cái nền rộng lớn, vững chắc, khi những chuẩn mực đạo đức trở thành hành vi đạo đức hàng ngày của toàn xã hội.
ØXây đi đôi với chống
Để xây dựng một nền đạo đức mới, cần phải kết hợp chặt chẽ giữa xây và chống. Trong đời sống hàng ngày, những hiện tượng tốt - xấu, đúng - sai, đạo đức và cái vô đạo thường đen xen nhau, đối chọi nhau thông qua hành vi của những con người khác nhau, thậm chí trong mỗi con người. Vì vậy, việc xây và chống trong lĩnh vực đạo đức rõ ràng không đơn giản. Xây phải đi đôi với chống, muốn xây phải chống, chống nhằm mục đích xây.
Xây dựng đạo đức mới, đạo đức cách mạng trước hết phải được tiến hành bằng việc giáo dục những phẩm chất, những chuẩn mực đạo đức mới. Việc giáo dục đạo đức phải được tiến hành phù hợp với từng giai đoạn cách mạng, phù hợp với từng lứa tuổi, ngành nghề, giai cấp, tầng lớp và trong từng môi trường khác nhau; phải khơi dậy được ý thức đạo đức lành mạnh ở mỗi người. Hồ Chí Minh chỉ ra rằng: “Mỗi con người đều có thiện và ác ở trong lòng. Ta phải biết làm cho phần tốt ở trong mỗi con người nảy nở như hoa mùa xuân và phần xấu bị mất dần đi, đó là thái độ của người cách mạng”. Bản thân sự tự giác cũng là một phẩm chất cao quý đối với mỗi người và mỗi tổ chức trước hết là Đảng.
Xây phải đi đôi với chống, với việc loại bỏ cái sai, cái xấu, cái vô đạo đức trong đời sống hàng ngày. Hồ Chí Minh cho rằng, trên con đường đi tới tiến bộ và cách mạng, đạo đức mới chỉ có thể xây dựng thành công trên cơ sở kiên trì mục tiêu chống chủ nghĩa đế quốc, chống những thói quen và tập quán lạc hậu và loại trừ chủ nghĩa cá nhân. Đây thực sự là “một cuộc chiến đấu khổng lồ” giữa tiến bộ và lạc hậu, giữa cách mạng và phản cách mạng. Để giành được thắng lợi trong cuộc chiến đấu này, điều quan trọng là phải phát hiện sớm, phải tuyên truyền, vận động hình thành phong trào quần chúng rộng rãi đấu tranh cho sự lành mạnh, trong sạch về đạo đức.
Ø Phải tu dưỡng đạo đức suốt đời
Một nền đạo đức mới chỉ được xây dựng trên cơ sở sự tự giác tu dưỡng đạo đức của mỗi người.
Hồ Chí Minh nhắc lại luận điểm của Khổng Tử “chính tâm, tu thân…” và chỉ rõ: “Chính tâm tu thân tức là cải tạo. Cải tạo cũng phải trường kỳ gian khổ, vì đó là cuộc cách mạng trong bản thân mỗi người. Bồi dưỡng tư tưởng mới để đánh thắng tư tưởng cũ, đoạn tuyệt với con người cũ để trở thành con người mới không phải là một công việc dễ dàng… Dù khó khăn gian khổ nhưng muốn cải tạo thì nhất định thành công”.
Đạo đức cách mạng đòi hỏi mỗi người phải tự giác rèn luyện thông qua hoạt động thực tiễn, trong công việc, trong các mối quan hệ của mình, phải nhìn thẳng vào mình, không tự lừa dối, huyễn hoặc; phải thấy rõ cái hay, cái tốt, cái thiện của mình để phát huy và thấy rõ cái dở, cái xấu, cái ác của mình để khắc phục; phải kiên trì rèn luyện, tu dưỡng suốt đời như công việc rửa mặt hàng ngày. Hồ Chí Minh đưa ra một lời khuyên rất dễ hiểu: “đạo đức cách mạng không phải trên trời sa xuống. Nó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hàng ngày mà phát triển và củng cố. Cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong”.

2. Sinh viên học tập và làm theo  tư tưởng, tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh

a. Học tập và làm theo tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh
            - Xác định đúng vị trí, vai trò của đạo đức đối với cá nhân:
            - Đạo đức, hiểu tổng quát là toàn bộ  những chuẩn mực, những quy tắc, những quan niệm về các giá trị thiện, ác, lương tâm, trách nhiệm, danh dự, hạnh phúc, công bằng được xã hội thừa nhận. Đạo đức là yếu tố cơ bản của nhân cách tạo nên giá trị con người.
            - Hồ Chí Minh quan tâm đến việc giáo dục đạo đức cho thanh niên từ rất sớm, vì thanh niên là “người chủ tương lai của nước nhà”- Sdd, t 5, tr 185.
            -Thực hành đạo đức trong đời sống hàng ngày không chỉ có tác dụng tôn vinh, nâng cao giá trị chính họ mà còn tạo sức mạnh nội sinh, giúp họ vượt qua khó khăn, thử thách . - Trong xã hội, mỗi người có công việc, tài năng và vị trí khác nhau, người làm việc to, người làm việc nhỏ, nhưng ai giữ được đạo đức cách mạng đều là người cao thượng.
            - Kiên trì, tu dưỡng theo các phẩm chất đạo đức Hồ Chí Minh:
- Sinh viên phải có “6 cái yêu”: Yêu Tổ quốc, yêu nhân dân, yêu chủ nghĩa xã hội, yêu lao động, yêu khoa học và kỷ luật
- Sinh viên phải:
+ Rèn luyện cho mình những đức tính: trung thành, tận tụy, thật thà, chính trực.
+ Phải xác định  rõ nhiệm vụ của mình.
+ Trong học tập, phải kết hợp lý luận và thực hành, học tập với lao động; phải chống mọi biểu hiện của chủ nghĩa các nhân, chống tư tưởng háo danh, hám lợi, chống lười biếng, coi khinh lao động, kiêu ngạo, giả dối, khoa khoang…Phải trả lời được câu hỏi: học để làm gì?  Học để phục vụ cho ai?
+ Phải xác định rõ thế nào là tốt, thế nào là xấu? Ai là bạn, ai là thù? 
b. Nội dung  học tập theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh
            - Thực trạng đạo đức lối sống trong sinh viên hiện nay
            + Phần lớn sinh viên, thanh niên vẫn giữ được lối sống tình nghĩa, trong sạch, lành mạnh, khiêm tốn, cần cù và sáng tạo, có bản lĩnh, có chí lập thân, lập nghiệp, năng động nhạy bén, dám chịu trách nhiệm; gắn bó với nhân dân, đồng hành cùng dân tộc, phấn đấu cho sự nghiệp dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
            + Do tác động của nền kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế, một bộ phận sinh viên phai nhạt niềm tin, lý tưởng, mất phương hướng phấn đấu, không có chí lập thân, lập nghiệp, chạy theo lối sống thực dụng, sống thử, sống dựa dẫm, thiếu trách nhiệm, thờ ơ với gia đình và xã hội, sa vào nghiện ngập hút xách, thiếu trung thực, gian lận trong thi cử, chạy điểm, chạy thầy, chạy trường, mua bằng cấp… Đây là những biểu hiện không thể coi thường.
            - Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh
            +  Một là, học trung với nước, hiếu với dân, suốt đời phấn đấu cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng  giai cấp, giải phóng con người
            + Hai là, học cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, đời riêng trong sáng, nếp sống giản dị và đức tính khiêm tốn phi thường
            + Ba là, học đức tin tuyệt đối vào sức mạnh của nhân dân, kính trọng nhân dân và hết lòng, hết sức phục vụ nhân dân, luôn nhân ái, vị tha, khoan dung và nhân hậu với con người.
            +  Bốn là, học tấm gương về ý chí và nghị lực tinh thần to lớn, quyết tâm vượt qua mọi thử thách, gian nguy để đạt được mục đích cuộc sống.

Tư tưởng hồ chí minh về đạo đức

Tư tưởng hồ chí minh về đại đoàn kết quốc tế


1. Sự cần thiết xây dựng đoàn kết quốc tế.

a. Thực hiện đại đoàn kết quốc tế nhằm kết hợp sức mạnh dân tộc  với sức mạnh thời đại, tạo sức mạnh tổng hợp cho cách mạng.

  Sức mạnh của dân tộc Việt Nam là sự tổng hợp của các   yếu tố vật chất và tinh thần. Trước hết là chủ nghĩa yêu nước và ý thức tự lực, tự cường dân tộc; sức mạnh của tinh thần đoàn kết, của ý chí đấu tranh anh dũng, bất khuất cho độc lập tư do…chính sức mạnh đó được lịch sử cách mạng Việt Nam chứng minh trong suốt quá trình dựng nước và giữ nước.
Trong quá trình hoat động cách mạng của mình, Hồ Chí Minh luôn chú ý tổng kết thực tiễn dưới ánh sáng chủ nghĩa Mác- Lênin, Người đã từng bước phát hiện ra sức mạnh vĩ đại tiềm ẩn trong các trào lưu cách mạng thế giới mà Việt Nam cần tranh thủ, điển hình là cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917.
Theo Người, đối tượng đoàn kết quốc tế rất rộng lớn. Đó là phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc, phong trào cách mạng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động ở chính quốc và các nước TBCN nói chung, đoàn kết với nước Nga XôViết và các nước dân chủ. Đặc biệt là đoàn kết với nhân dân Lào và nhân dân Campuchia, thực hiện khối đại đoàn kết Việt- Miên- Lào, trong cuộc đấu tranh chống CNĐQ thực dân giành độc lập, tự do cho nhân dân mỗi nước.
b. Thực hiện đoàn kết quốc tế, nhằm góp phần cùng nhân dân thế giới thực hiện thắng lợi các mục tiêu cách mạng.
  Thời đại mà HCM sống và hoạt động chính trị là thời đại đã chấm dứt thời kỳ tồn tại biệt lập giữa các quốc gia, mở ra các quan hệ quốc tế ngày càng sâu rộng cho các dân tộc, làm cho cận mệnh của mỗi dân tộc không thể tách rời vận mệnh chung của cả loài người. Vì lẽ đó, HCM cho rằng, Đảng phải lấy toàn bộ thực tiễn của mình để chứng minh: chủ nghĩa yêu nước triệt để không thể nào tách rời với chủ nghĩa quốc tế vô sản trong sáng.
Theo HCM, muốn tăng cường đoàn kết quốc tế trong cuộc đấu tranh vì mục tiêu chung, các Đảng Cộng sản phải kiên trì chống lại mọi khuynh hướng sai lầm của chủ nghĩa cơ hội, chủ nghĩa vị kỷ dân tộc, chủ nghĩa Sôvanh…những khuynh hướng làm suy yếu sức mạnh đoàn kết thống nhất của các lực lượng cách mạng thế giới.
Như vậy, trong tư tưởng HCM, thực hiện đoàn kết quốc tế, kết hợp chặt chẽ chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế vô sản là nhằm góp phần cùng nhân dân thế giới thực hiện thắng lợi các mục tiêu cách mạng của dân tộc và của thời đại. Bởi lẽ, theo Người: Độc lập cho dân tộc mình đồng thời là độc lập cho dân tộc bạn, giúp bạn là tự giúp mình.

2. Nội dung và hình thức đoàn kết quốc tế

a. Các lực lượng cần đoàn kết
- Theo HCM các lực lượng cần đoàn kết là:
+ Phong trào cộng sản và công nhân quốc tế
+ Phong trào đấu tranh GPDT
+ Phong trào hòa bình dân chủ thế giới
- Đối với phong trào cộng sản và công nhân thế giới: Sự đoàn kết giữa giai cấp vô sản quốc tế là một đảm bảo vững chắc cho thắng lợi của chủ nghĩa cộng sản. Điều này được HCM thể hiện trong lời phát biểu của mình tại Đại hội Tua Tháng 12/1920: “Nhân danh toàn thể loài người, nhân danh tất cả các đảng viên xã hội, cả phái hữu lẫn phái tả, chúng tôi kêu gọi: các đồng chí hãy cứu chúng tôi”. (HCMTT, tập 1, tr 23- 24, NxbCTQG, HN 2002).
- Đối với phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc: CNĐQ là kẻ thù của nhân loại, chúng có âm mưu chia rẽ dân tộc, tạo sự biệt lập, đối kháng và thù ghét dân tộc, chủng tộc…nhằm làm suy yếu phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa. Vì lẽ đó, Người đã kiến nghị Ban phương Đông Quốc tế Cộng sản về những biện pháp nhằm: “ Làm cho các dân tộc thuộc địa, từ trước đến nay vẫn cách biệt nhau hiểu biết nhau hơn và đoàn kết lại để đặt cơ sở cho một liên minh Phương Đông tương lai, khối liên minh này sẽ là một trong cái cánh của cách mạng vô sản”.
- Đối với các lực lượng tiến bộ, những người yêu chuộng hòa bình dân chủ, tự do và công lý: HCM cũng tìm mọi cách để thực hiện đoàn kết. Trong quá trình đó, đã gắn cuộc đấu tranh vì độc lập ở VN với mục đích bảo vệ hòa bình, tự do, công lý và bình đẳng để tập hợp và tranh thủ sự ủng hộ của các lực lượng tiến bộ trên thế giới, từ đó HCM đã khơi gợi lương tri của loài người tiến bộ, tạo những tiếng nói ủng hộ mạnh mẽ từ các tổ chức quần chúng, các nhân sĩ trí thức và từng con người trên hành tinh, tích cực đấu tranh vì sự tiến bộ và phát triển của loài người.
b. Hình thức đoàn kết
Dựa trên cơ sở các quan hệ về địa lí- chính trị và tính chất chính trị xã hội trong khu vực và trên thế giới, cũng như tình hình và nhiệm vụ cách mạng trong mỗi thời kì. HCM đã từng bước xây dựng và củng cố khối đại đoàn kết quốc tế tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ của các trào lưu cách mạng thời đại, góp phần thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam.
Trong mối quan hệ quốc tế, HCM luôn dành sự quan tâm đặc biệt đối với các dân tộc trên bán đảo Đông Dương. Bởi lẽ, cả ba dân tộc đều là láng giềng gần gũi của nhau, có nhiều điểm tương đồng về lịch sử, văn hóa và cùng chung một kẻ thù là thực dân Pháp. Năm 1941, để khơi dậy sức mạnh và quyền tự quyết của mỗi dân tộc. Người quyết định thành lập riêng biệt Mặt trận độc lập đồng minh cho từng nước Việt Nam, Lào, Cao Miên, tiến tới thành lập Đông Dương độc lập đồng minh và Mặt trận đoàn kết Việt- Miên- Lào nhằm phối hợp và giúp đỡ nhau cùng chiến đấu, cùng thắng lợi.
Đối với các nước khác, Người chăm lo củng cố mối quan hệ đoàn kết, hữu nghị, hợp tác nhiều mặt theo tinh thần “ vừa là đồng chí, vừa là anh em”.
Như vậy, trong tư tưởng đại đoàn kết, HCM đã định hướng cho việc hình thành bốn tầng mặt trận:
+ Mặt trận đại đoàn kết dân tộc
+ Mặt trận đoàn kết Việt- Miên- Lào
+ Mặt trận nhân dân Á- Phi đoàn kết với Việt Nam
+ Mặt trận nhân dân thế giới đoàn kết với VN chống đế quốc xâm lược.

3. Nguyên tắc đoàn kết quốc tế

a. Đoàn kết trên cơ sở thống nhất mục tiêu và lợi ích có lý, có tình
Hồ Chí Minh đã phát hiện ra sự tương đồng giữa các nước chống đế quốc chủ nghĩa nhờ đặt cách mạng Việt Nam trong bối cảnh chung của thời đại kết hợp lợi ích của cách mạng Việt Nam với trào lưu cách mạng thế giới và nhận thức về nghĩa vụ của Việt Nam đối với sự nghiệp chung của loài người tiến bộ.
Đối với phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, Hồ Chí Minh giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, thực hiện đoàn kết thống nhất trên nền tảng của chủ nghĩa Mác - Lênin và chủ nghĩa quốc tế vô sản có lý, có tình.
- “Có lý”: phải tuân thủ những nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, phải xuất phát từ lợi ích chung của cách mạng thế giới.
- “Có tình”: là sự tôn trọng lẫn nhau, thông cảm, chia sẻ, trên tinh thần tình cảm của những người cùng chung lý tưởng, cùng chung mục tiêu đấu tranh, cùng hành động vì lợi ích chung.
- “Có lý”, “có tính” vừa thể hiện tính nguyên tắc, vừa là một nội dung của chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh - chủ nghĩa nhân văn cộng sản. Nó có tác dụng rất lớn trong việc củng cố khối đoàn kết quốc tế của giai cấp công nhân và của nhân dân lao động. Vì vậy, Hồ Chí Minh luôn giương cao ngọn cờ độc lập, tự do và quyền bình đẳng giữa các dân tộc và hòa bình trong công lý, tiến tới một nền hòa bình thật sự cho tất cả các dân tộc - “hòa bình trong độc lập tự do”. Chủ tịch Hội đồng Hòa bình thế giới Rômét Chanđra từng nói: “Bất cứ nơi nào chiến đấu cho độc lập, tự do, ở đó có Hồ Chí Minh và ngọn cờ Hồ Chí Minh bay cao…”.
b. Đoàn kết trên cơ sở độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường
Theo Hồ Chí Minh đoàn kết quốc tế là tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ, giúp đỡ của các lực lượng quốc tế. Để đoàn kết quốc tế tốt phải có nội lực tốt. Nội lực là nhân tố quyết định, còn nguồn lực ngoại sinh chỉ có thể phát huy tác dụng thông qua nguồn lực nội sinh. Vì vậy, trong đấu tranh cách mạng, Hồ Chí Minh luôn nêu cao khẩu hiệu: “Tự lực cánh sinh, dựa vào sức mình là chính”; “muốn người ta giúp cho thì trước hết mình phải tự mình giúp lấy mình đã”; và Người chỉ rõ: “Một dân tộc không tự lực cánh sinh mà cứ ngồi chờ dân tộc khác giúp đỡ thì không xứng đáng được độc lập”.
Hồ Chí Minh cho rằng: muốn tranh thủ được sự ủng hộ quốc tế. Đảng phải có đường lối độc lập, tự chủ đúng đắn. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 và kháng chiến chống thực dân Pháp của Việt Nam là thắng lợi của đường lối đúng đắn và sáng tạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, đến kháng chiến chống Mỹ thắng lợi với đường lối độc lập, tự chủ giương cao hai ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, kết hợp hài hòa lợi ích dân tộc và lợi ích quốc tế.
Kết luận:
-  Đại đoàn kết dân tộc là chiến lược cách mạng, là cội nguồn sức mạnh làm nên mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam, một đóng góp quan trọng vào cách mạng thế giới. Đây là đóng góp sáng tạo của HCM mà các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác- Lênin chưa đề cập tới.
Tư tưởng đại đoàn kết dân tộc của HCM là một đóng góp quan trọng vào kho tàng kinh nghiệm cách mạng thế giới, làm phong phú lý luận chủ nghĩa Mác- Lênin về công tác vận động và tổ chức quần chúng của Đảng Cộng sản.
-  Thực tiễn CMVN đã và đang chứng minh sức sống ký diệu của tư tưởng đại đoàn kết HCM, đây là một trong những nhân tố quan trọng giúp chúng ta vượt qua mọi khó khăn thử thách để tiến tới mục tiêu: “ Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.
Trong công cuộc đổi mới hiện nay, trong quá trình lãnh đạo, Đảng ta đã kế thừa, vận dụng và phát triển đất nước rửa được cái nhục đói nghèo, lạc hậu, cái nhục tụt hậu xa hơn về kinh tế, khoa hoc, công nghệ so với các nước trong  khu vực và trên thế giới, quyết tâm chấn hưng đất nước, không bỏ lỡ thời cơ, vận hội, phát huy tinh thần tự lực tự cường, đẩy lùi mọi nguy cơ, vượt qua mọi thử thách, phát huy được tính năng động của mỗi người của cả cộng đồng.
Trong điều kiện hiện nay, đại đoàn kết theo tư tưởng HCM đòi hỏi phải xây dựng được một Đảng cầm quyền thật sự trong sạch, vững mạnh, cán bộ, đảng viên thật sự vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân.
Trong khuôn khổ luật pháp, tiếp tục đổi mới chính sách giai cấp, chính sách xã hội, hoàn thiện chính sách dân tộc, chính sách tôn giáo…
Muốn vậy, Đảng và Nhà nước phải chủ động xác định rõ các bước hội nhập quốc tế trong xu thế toàn cầu hóa hiện nay. Thực hiện chính sách mở cửa giao lưu, hợp tác, đa dạng hóa, đa phương hóa, củng cố khối đoàn kết với mọi lực lượng tiến bộ trên thế giới vì mục tiêu hòa bình, độc lập dân tộc dân chủ và phát triển.

Tư tưởng hồ chí minh về đại đoàn kết quốc tế

Tư tưởng hồ chí minh về đại đoàn kết dân tộc


1. Vai trò của đại đoàn kết dân tộc trong sự nghiệp cách mạng

a. Đại đoàn kết dân tộc là vấn đề có ý nghĩa chiến lược, quyết định thành công của cách mạng


Theo Hồ Chí Minh, để đánh bại đế quốc thực dân nhằm giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con người, nếu chỉ có tinh thần yêu nước chưa đủ mà cần phải tập hợp được tất cả mọi lực lượng có thể tập hợp, xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc bền vững. Vì vậy, trong tư tưởng Hồ Chí Minh đại đoàn kết dân tộc là vấn đề có ý nghĩa chiến lược, cơ bản nhất quán và lâu dài, xuyên suốt tiến trình cách mạng.
Để quy tụ được mọi lực lượng vào khối đại đoàn kết toàn dân cần phải có chính sách và phương pháp phù hợp với từng đối tượng, trong từng thời kỳ, từng giai đoạn cách mạng, đại đoàn kết dân tộc phải luôn luôn được nhận thức là vấn đề sống còn, quyết định thành bại của cách mạng.
Vai trò của khối đại đoàn kết:
- Đoàn kết làm ra sức mạnh.
- Đoàn kết là then chốt của thành công.
- Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết,
Thành công, thành công, đại thành công.

b. Đại đoàn kết dân tộc là mục tiêu là nhiệm vụ hàng đầu của Đảng, của dân tộc

Đoàn kết là sức mạnh, là mạch nguồn của mọi thắng lợi. Do đó, đại đoàn kết dân tộc phải được xác định là nhiệm vụ hàng đầu của Đảng, phải được quán triệt trong tất cả mọi lĩnh vực.
Ngày 3/3/1951, Hồ Chí Minh thay mặt Đảng tuyên bố trước toàn thể dân tộc: “Mục đích của Đảng Lao động Việt Nam có thể gồm trong 8 chữ: Đoàn kết toàn dân, phụng sự Tổ quốc”. Vì vậy, Người luôn luôn nhắc nhở cán bộ, đảng viên phải thấm nhuần lời dạy: “Dễ trăm lần không dân cũng chịu, khó vạn lần dân liệu cũng xong”.
Đại đoàn kết dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu của Đảng. Bởi lẽ, cách mạng muốn thành công nếu chỉ có đường lối đúng chưa đủ mà trên cơ sở của đường lối đúng, Đảng phải cụ thể hóa thành những mục tiêu, nhiệm vụ và phương pháp cách mạng phù hợp với từng giai đoạn lịch sử để lôi kéo, tập hợp quần chúng, tạo thực lực cho cách mạng, thực lực đó chính là khối đại đoàn kết dân tộc.

2. Nội dung của đại đoàn kết dân tộc

a. Đại đoàn kết dân tộc là đại đoàn kết toàn dân

Đứng trên lập trường giai cấp công nhân và quan điểm quần chúng, Hồ Chí Minh đã đề cập vấn đề DÂN và NHÂN DÂN một cách rõ ràng, toàn diện.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, dân và nhân dân vừa được hiểu với tư cách là mỗi con người Việt Nam cụ thể, vừa là một tập hợp đông đảo quần chúng  nhân dân, họ là chủ thể của khối đại đoàn kết dân tộc, đại đoàn kết dân tộc thực chất là khối đại đoàn kết toàn dân.
Hồ Chí Minh cho rằng: “Đoàn kết của ta không những rộng rãi mà còn đoàn kết lâu dài… Ta đoàn kết để đấu tranh cho thống nhất và độc lập của Tổ quốc; ta còn phải đoàn kết để xây dựng nước nhà. Ai có tài, có đức, có sức, có lòng phụng sự Tổ quốc và phục vụ nhân dân thì ta đoàn kết với họ”. Vì vậy, Người chỉ rõ, trong quá trình xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân, phải đứng vững trên lập trường giai cấp công nhân, giải quyết hài hòa mối quan hệ giai cấp - dân tộc để tập hợp lực lượng và Người đã định hướng cho việc xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân trong tiến trình cách mạng Việt Nam từ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân đến cách mạng xã hội chủ nghĩa.

b. Thực hiện đại đoàn kết toàn dân phải kế thừa truyền thống yêu nước - nhân nghĩa - đoàn kết của dân tộc; đồng thời phải có tấm lòng khoan dung, độ lượng, tin vào nhân dân, tin vào con người.

Để xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân, phải kế thừa truyền thống yêu nước của dân tộc, truyền thống này được xây dựng, củng cố và phát triển trong suốt quá trình dựng nước và giữ nước và đã trở thành cội nguồn sức mạnh của dân tộc, trong cuộc đấu tranh chống mọi thiên tai địch hoạ, làm cho đất nước được trường tồn, bản sắc dân tộc được giữ vững.
Theo Hồ Chí Minh, trong mỗi con người ai cũng có mặt tốt, mặt xấu… Cho nên, vì lợi ích cách mạng, cần phải có lòng khoan dung độ lượng, trân trọng phần thiện ở mỗi con người.
Người cho rằng: “Trong mấy triệu người… dòng dõi tổ tiên ta. Vậy ta phải khoan hồng đại độ. Ta phải nhận thấy rằng đã là con Lạc cháu Hồng thì ai cũng có ít hay nhiều lòng ái quốc. Đối với những đồng bào lạc lối lầm đường ta phải dùng tình nhân ái mà cảm hóa họ. Có như thế mới thành đoàn kết, có đoàn kết thì tương lai chắc chắn sẽ vẻ vang”.
Để thực hành đoàn kết rộng rãi, cần có niềm tin vào nhân dân. Vì vậy, nguyên tắc tối cao của Người là yêu dân, tin dân, dựa vào dân, sống, đấu tranh vì hạnh phúc của nhân dân, tiếp nối truyền thống dân tộc “nước lấy dân làm gốc”.

      3. Hình thức tổ chức khối đại đoàn kết dân tộc

a. Hình thức tổ chức của khối đại đoàn kết dân tộc là Mặt trận dân tộc thống nhất

Đại đoàn hết dân tộc trong tư tưởng Hồ Chí Minh là một chiến lược cách mạng và trở thành khẩu hiệu của toàn Đảng, toàn dân tộc. Nó biến thành sức mạnh vật chất, trở thành lực lượng vật chất có tổ chức. Tổ chức đó chính là Mặt trận dân tộc thống nhất.
Mặt trận dân tộc thống nhất là nơi quy tụ mọi tổ chức và cá nhân yêu nước. Tùy theo từng thời kỳ, căn cứ vào yêu cầu và nhiệm vụ cách mạng, cương lĩnh và điều lệ của Mặt trận dân tộc thống nhất có những nét khác nhau và tên gọi của Mặt trận dân tộc thống nhất cũng khác nhau:
+ Hội phản đế đồng minh (1930),
+ Mặt trận Dân chủ (1936),
+ Mặt trận nhân dân phản đế (1939),
+ Mặt trận Việt Minh (1941),
+ Mặt trận Liên Việt (1946),
+ Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (1955 đến 1976),
+ Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam (1960).
Song chỉ là sự phấn đấu vì mục tiêu là độc lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc và hạnh phúc của nhân dân.

b. Một số nguyên tắc cơ bản về xây dụng và hoạt động của Mặt trận dân tộc thống nhất

- Mặt trận dân tộc thống nhất phải được xây dựng trên nền tảng liên minh công - nông - trí thức, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng.
- Mặt trận dân tộc thống nhất phải hoạt động trên cơ sở bảo đảm lợi ích tối cao của dân tộc, quyền lợi cơ bản của các tầng lớp nhân dân.
- Mặt trận dân tộc thống nhất phải hoạt động theo nguyên tắc hiệp thương dân chủ, bảo đảm đoàn kết ngày càng rộng rãi và bền vững.
- Mặt trận dân tộc thống nhất là khối đoàn kết chặt chẽ, lâu dài, đoàn kết thật sự, chân thành, thân ái, giúp đỡ nhau cùng tiến bộ.

Tư tưởng hồ chí minh về đại đoàn kết dân tộc

Tư tưởng hồ chí minh về đảng cộng sản việt nam


1. Xây dựng Đảng- quy luật tồn tại và phát triển của Đảng.

Theo Hồ Chí Minh việc xây dựng và chỉnh đốn Đảng là một nhiệm vụ tất yếu, thường xuyên để Đảng hoàn thành vai trò tiên phong trước giai cấp, dân tộc và nhân dân.
Xây dựng Đảng được Hồ Chí Minh đặt ra như một nhiệm vụ vừa cấp bách, vừa lâu dài, kể cả lúc thuận lợi cũng như lúc gặp khó khăn, xây dựng Đảng để cán bộ đảng viên củng cố lập trường quan điểm, bình tĩnh, sáng suốt, không tỏ ra bị động, lúng túng, bi quan.
Trong quan niệm của Hồ Chí Minh, xây dựng chỉnh đốn Đảng gắn liền với sự tồn tại của Đảng, còn Đảng còn hoạt động, còn cần phải tổ chức xây dựng, chỉnh đốn. Bởi vì:
+ Xây dựng, chỉnh đốn Đảng bị chế định bởi quá trình phát triển liên tục của sự nghiệp cách mạng do Đảng lãnh đạo.
+ Đảng sống trong xã hội, là một bộ phận hợp thành cơ cấu của xã hội, mỗi cán bộ, đảng viên đều chịu ảnh hưởng, tác động của môi trường xã hội, các quan hệ xã hội, cả cái tốt và cái xấu, cái tích cực, tiến bộ và cái tiêu cực, lạc hậu. Do đó mỗi cán bộ, đảng viên phải thường xuyên rèn luyện.
+ Xây dựng, chỉnh đốn Đảng là cơ hội để mỗi cán bộ, đảng viên tự rèn luyện, giáo dục và tu dưỡng tốt hơn, hoàn thành các nhiệm vụ mà nhân dân giao phó.
+ Trong điều kiện Đảng đã trở thành Đảng cầm quyền, việc xây dựng chỉnh đốn Đảng cần phải được tiến hành thường xuyên hơn. Bởi lẽ, Người nhận rõ tính hai mặt vốn có của quyền lực. Một mặt, quyền lực có sức mạnh to lớn để cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới nếu biết sử dụng đúng lúc. Mặt khác, quyền lực cũng có sức phá hoại ghê gớm nếu người nắm quyền lực bị tha hóa, biến chất, đi vào con đường ham muốn quyền lực, chạy theo quyền lực, tranh giành quyền lực…
Nhận thức đúng sự tác động qua lại giữa môi trường xã hội và vai trò lãnh đạo của Đảng, đặc điểm phát triển tâm lý, nhân cách của cán bộ, đảng viên, Hồ Chí Minh đã đi đến một nhận định mang tính triết lý và thực tiễn sâu sắc, có giá trị phổ quát trong vấn đề xây dựng đổi mới chỉnh đốn Đảng: Một dân tộc một Đảng và mỗi con người ngày hôm qua là vĩ đại có sức hấp dẫn lớn không nhất định hôm nay và ngày mai vẫn được mọi người yêu mến và ca ngợi, nếu lòng dạ không trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân”.

2. Nội dung công tác xây dựng Đảng Cộng Sản Việt Nam.

a. Xây dựng Đảng về tư tưởng, lý luận

Hồ Chí Minh chỉ rõ: để đạt mục tiêu cách mạng, cần phải dựa vào lý luận cách mạng của chủ nghĩa Mác- Lênin. Trong lớp huấn luyện cán bộ từ năm 1925 - 1927, Hồ Chí Minh khẳng định: “Đảng muốn vững phải có chủ nghĩa làm cốt, trong Đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy”, “chủ nghĩa” ấy là chủ nghĩa Mác - Lênin. Với ý nghĩa đó, theo Người chủ nghĩa Mác - Lênin trở thành “cốt”, trở thành nền tảng tư tưởng và trở thành kim chỉ nam cho mọi hành động của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Để tiếp nhận và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể nước ta, theo Hồ Chí Minh cần lưu ý những điểm sau:
Một là, việc học tập, nghiên cứu, tuyên truyền chủ nghĩa Mác - Lênin phải phù hợp với đối tượng.
Hai là, việc vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin phải luôn luôn phù hợp với từng hoàn cảnh.
Ba là, trong quá trình hoạt động, Đảng ta phải chú ý học tập, kế thừa những kinh nghiệm tốt của các đảng cộng sản khác, đồng thời Đảng ta phải tổng kết kinh nghiệm của mình để bổ sung chủ nghĩa Mác - Lênin.
Bốn là, Đảng ta phải tăng cường đấu tranh để bảo vệ sự trong sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin. Chú ý chống giáo điều, cơ hội, xét lại chủ nghĩa Mác - Lênin, chống lại những luận điểm sai trái, xuyên tạc, phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin.

b. Xây dựng Đảng về chính trị

Bao gồm: xây dựng đường lối chính trị, bảo vệ chính trị, xây dựng và thực hiện nghị quyết, xây dựng và phát triển hệ tư tưởng chính trị, củng cố lập trường chính trị, nâng cao bản lĩnh chính trị,… Trong đó, đường lối chính trị là một vấn đề cốt tử trong sự tồn tại và phát triển của Đảng.
Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền có vai trò định hướng phát triển cho xã hội. Vì vậy, theo Hồ Chí Minh, cần phải chú ý giáo dục đường lối, chính sách của Đảng, thông tin thời sự cho cán bộ, đảng viên để họ luôn luôn kiên định lập trường, giữ vững bản lĩnh chính trị trong mọi hoàn cảnh

c. Xây dựng Đảng về tổ chức, bộ máy, công tác cán bộ.

Hệ thống tổ chức của Đảng: sức mạnh của Đảng bắt nguồn từ tổ chức, một tổ chức tiên phong chiến đấu của giai cấp công nhân. Hệ thống tổ chức của Đảng từ Trung ương đến cơ sở phải thật chặt chẽ, có tính kỷ luật cao, tuy nhiên mỗi cấp độ tổ chức có chức năng nhiệm vụ riêng.
Trong hệ thống tổ chức của Đảng, Hồ Chí Minh coi trọng vai trò của chi bộ, chi bộ là tổ chức hạt nhân, quyết định chất lượng lãnh đạo của Đảng, là môi trường tu dưỡng, rèn luyện và cũng là nơi giám sát đảng viên, chi bộ có vai trò gắn kết giữa Đảng với quần chúng nhân dân.
Các nguyên tắc tổ chức, sinh hoạt Đảng:
+ Tập trung dân chủ: đây là nguyên tắc cơ bản nhất để xây dựng một Đảng Cộng sản thành một tổ chức chiến đấu chặt chẽ và phát huy sức mạnh của mỗi người và phát huy sức mạnh của tập thể. Đảng không phải là một câu lạc bộ để mọi người có thể ra vào tùy tiện hoặc vào Đảng mà chỉ nói mà không làm, hoặc mỗi người làm một cách rốt cuộc triệt tiêu sức mạnh của cả tổ chức và của mỗi người nên Hồ Chí Minh coi tập trung dân chủ là nguyên tắc tổ chức của Đảng. Người nói: “Đảng ta tuy nhiều người nhưng khi tiến đánh thì chỉ như một”.
+ Tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách: theo Hồ Chí Minh đây là nguyên tắc lãnh đạo Đảng
Khi nói về nguyên tắc tập thể lãnh đạo Hồ Chí Minh đã phân tích: Một người dù tài giỏi đến mấy cũng không thể thấy hết mọi mặt của một vấn đề, càng không thể thấy hết được mọi việc, hiểu hết được mọi chuyện. Nhiều người thì nhiều kiến thức, người thấy mặt này, người thấy mặt kia, do đó hiểu được mọi mặt, mọi vấn đề. Châm ngôn có câu: “Dại bầy hơn khôn độc”.
Khi nói về cá nhân phụ trách Người chỉ rõ: Khi tập thể đã bàn bạc kỹ lưỡng kế hoạch đã được định rõ thì cần giao cho một người phụ trách như thế với công việc mới chạy, tránh việc người này ỷ lại người kia. Châm ngôn có câu: “Nhiều sãi không ai đóng cửa chùa”.
Hồ Chí Minh kết luận: lãnh đạo không tập thể thì sẽ đi đến tệ bao biện, độc đoán, chủ quan. Kết quả là hỏng việc.
Phụ trách không do cá nhân sẽ đi đến cái tệ bừa bãi, độc đoán, lộn xộn, vô chính phủ. Kết quả cũng là hỏng việc.
Tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách cần phải luôn luôn đi đôi với nhau.
+ Tự phê bình và phê bình: đây là nguyên tắc sinh hoạt của Đảng là qui luật phát triển của Đảng.
Khi nói về tự phê bình Người phân tích: mỗi đảng viên tự mình phải thấy rõ mình, để phát huy ưu điểm, khắc phục khuyết điểm, cũng giống như phải tự soi gương rửa mặt hằng ngày. Tự phê bình là vũ khí rèn luyện đảng viên. Người chỉ rõ: “Một Đảng mà dấu giếm khuyết điểm của mình là một Đảng hỏng. Một Đảng có gan thừa nhận khuyết điểm của mình, vạch rõ những cái đó, vì đâu mà có khuyết điểm đó, xét rõ hoàn cảnh sinh ra khuyết điểm đó, rồi tìm kiếm mọi cách để sửa chữa khuyết điểm đó. Như thế mới là một Đảng tiến bộ, mạnh dạn, chắc chắn, chân chính”.
+ Kỷ luật nghiêm minh, tự giác: khi mỗi người vào Đảng đều do sự tự nguyện của cá nhân mình nên khi ở trong Đảng mỗi cá nhân phải tự giữ kỷ luật của mình đối với Đảng trên tinh thần tự giác, nghiêm minh, Đảng lấy danh dự uy tín làm trọng.
+ Đoàn kết thống nhất trong Đảng: trong Di chúc, Người đã căn dặn: “Đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng và nhân dân ta. Các đồng chí từ Trung ương đến chi bộ cần phải giữ gìn đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình”.
Về tổ chức, đó là một tổ chức chính trị trong sạch, vững mạnh, một tổ chức chiến đấu kiên cường, với các nguyên tắc nền móng được tuân thủ nghiêm ngặt để khi hành động thì muôn người như một.
Về đạo đức, lối sống, cán bộ và đảng viên của Đảng coi trọng việc tu dưỡng đạo đức cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, nâng cao năng lực, gắn bó máu thịt với nhân dân, sẵn sàng xả thân vì sự nghiệp cách mạng. Hồ Chí Minh là hiện thân của điều đó.
Bên cạnh những thành tựu trong công tác xây dựng Đảng cầm quyền, những bất cập, yếu kém, hạn chế cũng không phải ít, nhất là sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên chưa được ngăn chặn và đẩy lùi. Những hạn chế này đang làm giảm sút niềm tin của nhân dân đối với Đảng, hạn chế năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng. Được chiếu rọi bởi ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta quyết tâm xây dựng, chỉnh đốn Đảng một cách thiết thực, xác định đổi mới và chỉnh đốn Đảng nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển của giai cấp và dân tộc là quy luật tồn tại sống còn của Đảng Cộng sản Việt Nam.

d. Xây dựng Đảng về đạo đức

Theo Hồ Chí Minh: một Đảng chân chính cách mạng phải có đạo đức. Đạo đức tạo nên uy tín, sức mạnh của Đảng, giúp Đảng đủ tư cách lãnh đạo, hướng dẫn quần chúng nhân dân.
Đạo đức của Đảng ta là đạo đức mới, đạo đức cách mạng mang bản chất của giai cấp công nhân, cũng là đạo đức Mác - Lênin, đạo đức cộng sản chủ nghĩa mà nội dung cốt lõi là chủ nghĩa nhân đạo chiến đấu. Vì thế, Hồ Chí Minh chỉ rõ: Đảng ta là một Đảng cầm quyền, mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư. Có đạo đức cách mạng trong sáng Đảng ta mới lãnh đạo nhân dân đấu tranh giải phóng dân tộc, làm cho Tổ quốc giàu mạnh, đồng bào sung sướng. Đó là mục tiêu, lý tưởng của Đảng và cũng là tư cách số một của Đảng cầm quyền.

Kết luận:

- HCM là người sáng lập, đồng thời là người giáo dục và rèn luyện Đảng Cộng sản Việt Nam. Từ nhu cầu giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng vô sản, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác- Lênin, HCM đã kết hợp chặt chẽ giữa nhận thức  và hành động, tổng kết thực tiễn, xác lập nên một hệ thống các quan điểm, tư tưởng về Đảng cộng sản và xây dựng Đảng trong điều kiện một nước thuộc địa nửa phong kiến, kinh tế nông nghiệp lạc hậu với các đặc điểm văn hóa truyền thống phương Đông. Những quan điểm này thật sự là sáng tạo riêng của HCM, góp phần cụ thể hóa và phát triển lý luận Mác- Lênin về Đảng cộng sản, làm cho Đảng thật sự trong sạch đạt đến tầm cao về đạo đức, trí tuệ, bản lĩnh chính trị, vững vàng trước mọi thử thách của lịch sử.
+ Về chính trị, đó là đường lối chính trị đúng đắn, bản lĩnh chính trị vững vàng trong mọi tình huống phức tạp, mọi bước ngoặt hiểm nghèo, mọi giai đoạn cách mạng khác nhau.
+ Về tư tưởng, đó là tư tưởng cách mạng triệt để, tư tưởng cách mạng tiến công, chống chủ nghĩa cơ hội, xét lại, giáo điều, bảo thủ.
+ Về tổ chức, đó là một tổ chức chính trị trong sạch vững mạnh, một tổ chức chiến đấu kiên cường, với các nguyên tắc nền móng được tuân thủ nghiêm ngặt để khi hành động thì muôn người như một.
+ Về đạo đức, lối sống, cán bộ, đảng viên của Đảng coi trọng việc tu dưỡng đạo đức, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, nâng cao năng lực, gắn bó máu thịt với nhân dân, sẵn sàng  xả thân vì sự nghiệp cách mạng. HCM là hiện thân của điều đó.
Bên cạnh những thành tựu trong công tác xây dựng Đảng cầm quyền, nhưng bất cập, yếu kém, hạn chế càng không phải ít, nhất là sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên chưa được ngăn chặn và đẩy lùi. Những hạn chế này đang làm giảm sút niềm tin của nhân dân đối với Đảng, hạn chế năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng. Được chiếu rọi bởi ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta quyết tâm xây dựng, chỉnh đốn Đảng một cách thiết thực, xác định đổi mới và chỉnh đốn Đảng đáp ứng nhu cầu phát triển của giai cấp và dân tộc là quy luật tồn tại sống còn của Đảng cộng sản Việt Nam.

Tư tưởng hồ chí minh về đảng cộng sản việt nam