loi, bai, hat, lời bài hát

Thứ Năm, 27 tháng 2, 2014

ÔN TẬP TỐT NGHIỆP MÔN TRIẾT HỌC MÁC-LÊNIN VÀ TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH


Nội dung ôn tập Triết học Mác-Lênin
1. Triết học, vấn đề cơ bản của Triết học.

2. Vật chất, ý thức, mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức.
3. Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến, nguyên lý về sự phát triển.
4. Quy luật chuyển hóa từ những sự thay đổi về lượng thành những sự thay đổi về chất và ngược lại. Quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập.
5. Nhận thức, thực tiễn và vai trò của thực tiễn đối với nhận thức.
6. Biện chứng của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Biện chứng của cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng.
7. Giai cấp.
Nội dung ôn tập Tư tưởng Hồ Chí Minh
1. Nguồn gốc, quá trình hình thành và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh.
2. Định nghĩa tư tưởng Hồ Chí Minh
3. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc.
4. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức.
Tài liệu tham khảo:
- Giáo trình Triết học Mác-Lênin (dùng trong các trường đại học, cao đẳng). Nhà xuất bản chính trị quốc gia, Hà Nội 2007
- Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh (dùng trong các trường đại học, cao đẳng). Nhà xuất bản chính trị quốc gia, Hà Nội 2007
- Ngoài ra sinh viên có thể tham khảo những tài liệu khác liên quan đến chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Kế hoạch ôn tập tập trung tại trường: sinh viên theo dõi trên Web site của trường, phòng đào tạo, khoa giáo dục đại cương

                                         TP.HCM, ngày 12 tháng 04 năm 2010
                                       TRƯỞNG BỘ MÔN



                                      PHẠM ĐÌNH HUẤN

ÔN TẬP TỐT NGHIỆP MÔN TRIẾT HỌC MÁC-LÊNIN VÀ TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

Thứ Sáu, 21 tháng 2, 2014

Tư tưởng Hồ Chí Minh về rèn luyện nhân cách Đảng viên Cộng sản


Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn luôn quan tâm đến việc giáo dục, rèn luyện phẩm chất đội ngũ đảng viên. Ngay từ năm 1925, bài giảng đầu tiên của Người cho những cán bộ cách mạng trẻ tuổi của Việt Nam là vấn đề “tư cách một người cách mệnh”.


Nghiên cứu những bài nói và viết của Người, chúng ta đều thấy mối quan tâm hàng đầu của Người là xây dựng một đội ngũ cán bộ đảng viên của Đảng thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư. Sự giác ngộ lý tưởng cộng sản, lòng trung thành với sự nghiệp cách mạng của Đảng, của giai cấp công nhân, suốt đời hy sinh phấn đấu vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản là phẩm chất hàng đầu mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đặt ra cho mỗi đảng viên cộng sản.

Người căn dặn mỗi đảng viên "không một phút nào được quên lý tưởng cao cả của mình là phấn đấu cho Tổ quốc hoàn toàn độc lập cho chủ nghĩa xã hội hoàn toàn thắng lợi trên đất nước ta và trên toàn thế giới"; phải biết đặt lợi ích của giai cấp, của dân tộc lên trên lợi ích của cá nhân, luôn vững vàng trước mọi khó khăn, vô luận trong hoàn cảnh nào cũng phải đặt lợi ích của Đảng lên trên hết; nếu khi "lợi ích chung của Đảng mâu thuẫn với lợi ích riêng của cá nhân thì phải quyết hy sinh lợi ích của cá nhân cho lợi ích của Đảng". Người chỉ rõ: suốt đời phục vụ Đảng, phục vụ nhân dân "là phẩm chất cao quý của người cách mạng. Đó là đạo đức cách mạng. Đó là tính Đảng, tính giai cấp, nó bảo đảm cho sự thắng lợi của đảng, của giai cấp, của nhân dân". Người đánh giá rất cao những đảng viên luôn luôn trung thành với sự nghiệp cách mạng của giai cấp và của dân tộc, suốt đời hy sinh phấn đấu vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản, đồng thời phê phán nghiêm khắc những kẻ lợi dụng địa vị để mưu cầu lợi ích cá nhân làm tổn hại đến lợi ích của giai cấp công nhân và nhân dân lạo động.

Chủ tịch Hồ chí Mình đòi hỏi mỗi đảng viên cộng sản cùng với phẩm chất cách mạng cao quý còn phải có năng lực, vì có năng lực mới hoàn thành tốt được nhiệm vụ của Đảng giao cho. Người dạy rằng, "Đảng yêu cầu cán bộ và đảng viên chẳng những thạo về chính trị, mà còn phải giỏi về chuyên môn, không thể lãnh đạo chung chung”. Muốn vừa thạo về chính trị, vừa giỏi về chuyên môn, mỗi đảng viên phải ra sức "học tập chủ nghĩa Mác - Lênin và đường lối, chính sách của Đảng, học tập văn hoá, kỹ thuật và nghiệp vụ; không ngừng nâng cao trình độ chính trị, tư tưởng và năng lực công tác của mình”. Bởi vì, có học tập lý luận Mác - Lênin mới củng cố được đạo đức cách mạng, giữ vững lập trường, nâng cao hiểu biết và trình độ chính trị, mới làm tốt được công tác Đảng giao cho mình; “có nắm vững đường lối cách mạng mới hiểu rõ mình phải làm gì và đi theo phương hướng nào để thực hiện mục đích của Đảng trong giai đoạn cách mạng hiện nay”. Người cũng chỉ rõ rằng, muốn học tập có kết quả tốt, phải có thái độ đúng và phương pháp đúng, lý luận phải liên hệ với thực tế, phải “biến những điều đã học thành hành động cách mạng thực tế. Học phải đi đôi với hành, chứ không phải học để nói suông”.

Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, một yêu cầu quan trọng về phẩm chất đảng viên là liên hệ mật thiết với quần chúng, phát huy quyền làm chủ tập thể và sức mạnh sáng tạo to lớn của quần chúng. Bởi lẽ, Đảng là đội tiên phong của quần chúng, nhưng Đảng chỉ có sức mạnh nếu giữ vững được mối liên hệ chặt chẽ với quần chúng. Muốn làm cho quần chúng phấn khởi, tin tưởng, người đảng viên "phải nâng cao tinh thần phụ trách trước Đảng và trước quần chúng, hết lòng hết sức phục vụ nhân dân. Phải yêu kính nhân dân. Phải thật sự tôn trọng quyền làm chủ của nhân dân. Tuyệt đối không được lên mặt “quan cách mạng” ra lệnh, ra oai. Phải nắm vững quan điểm giai cấp, đi đúng đường lối quần chúng, thành tâm học hỏi quần chúng, kiên quyết dựa vào quần chúng, giáo dục và phát động quần chúng tiến hành mọi chủ trương, chính sách của Đảng và của Nhà nước. Phải thật thà, ngay thẳng, không được giấu dốt, giấu khuyết điểm, sai lầm. Phải khiêm tốn, gần gũi quần chúng, không được kiêu ngạo...Phải luôn chăm lo đến đời sống của quần chúng. Phải “chí công, vô tư” và có tinh thần “lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ”. “Người nghiêm khắc phê phán những đảng viên “xa rời quần chúng, không muốn học hỏi quần chúng...ngại làm việc tổ chức, tuyên truyền và giáo dục quần chúng...mắc bệnh quan liêu, mệnh lệnh. Kết quả là quần chúng không tin, không phục, không yêu...” và họ không làm nên trò trống gì.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhân cách đảng viên cộng sản luôn nhấn mạnh vấn đề xây dựng ý thức tổ chức và kỷ luật, phục tùng nghiêm chỉnh kỷ luật của Đảng, giữ gìn sự đoàn kết thống nhất trong Đảng. Bởi lẽ, sức mạnh vô địch của Đảng là ở tinh thần kỷ luật tự giác, ý thức tổ chức nghiêm. Người chỉ rõ: “Đảng ta tuy nhiều người, nhưng khi tiến đánh thì chỉ như một người. Đó là nhờ có kỷ luật. Kỷ luật của ta là kỷ luật sắt, nghĩa là nghiêm túc và tự giác”. Người đòi hỏi mỗi đảng viên cần phải làm kiểu mẫu về phục tùng kỷ luật, chẳng những kỷ luật của Đảng mà cả kỷ luật của các đoàn thể nhân dân và của cơ quan chính quyền. Trong giáo dục ý thức tổ chức kỷ luật, người yêu cầu mọi đảng viên phải ra sức góp phần xây dựng và giữ vững sự đoàn kết nhất trí trong Đảng. Bởi lẽ, đoàn kết là sức mạnh, là then chốt của thành công. "Nhờ đoàn kết chặt chẽ, một lòng một dạ phục vụ giai cấp, phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc, cho nên từ ngày thành lập đến nay, Đảng ta đã đoàn kết, tổ chức và lãnh đạo nhân dân ta hăng hái đấu tranh tiến từ thắng lợi này đến thắng lợi khác". Do đó, tất cả cán bộ, đảng viên, dù ở cương vị khác nhau, làm công tác khác nhau, cũng đều phải đoàn kết nhất trí để làm tròn nhiệm vụ, "giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình"

Chủ tịch Hồ Chí Minh còn chỉ rõ những biện pháp thiết thực để mỗi đảng viên cộng sản phấn đấu, rèn luyện, tu dưỡng nhân cách của mình. Trước hết, mỗi đảng viên phải ra sức tu dưỡng, rèn luyện để nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân. Nếu để cho chủ nghĩa cá nhân ám ảnh, chi phối, người đảng viên sẽ mất dần tư cách, đi tới tự tước bỏ danh hiệu cao quý của mình. Vì vậy, muốn giữ được tư cách, đảng viên nhất thiết "phải ra sức học tập, tu dưỡng, tự cải tạo để tiến bộ mãi. Nếu không cố gắng để tiến bộ, thì tức là thoái bộ, là lạc hậu...sẽ bị xã hội tiến bộ sa thải".

Việc giữ gìn bản chất, tư cách đảng viên cộng sản cần gắn với xây dựng, củng cố các tổ chức của Đảng, nhất là chi bộ, vì chi bộ “là nền móng của Đảng, chi bộ tốt thì mọi việc sẽ tốt”. Thực tế đã chứng minh rất rõ: ở đâu chi bộ mạnh, cấp ủy mạnh thì đảng viên mạnh, ở đâu chi ủy, chi bộ rệu rã thì ở đó cán bộ, đảng viên tê liệt sức chiến đấu, dễ trở thành hư hỏng, thoái hoá. Cho nên, trong xây dựng tổ chức đảng, xây dựng chi bộ, các cấp ủy đảng phải thực hiện dân chủ nội bộ, quan tâm đến đời sống của cán bộ, đảng viên, kịp thời giúp họ giải quyết những khó khăn, vướng mắc trong cuộc sống và công tác. Song, phải nghiêm khắc đối với những cán bộ, đảng viên phạm sai lầm, khuyết điểm; tẩy bỏ những phần tử hủ hoá nhằm giữ gìn nghiêm kỷ luật từ trên xuống dưới.

Cùng với việc giữ nghiêm kỷ luật, phải "mở rộng phong trào phê bình và tự phê bình ở trong Đảng, ở các cơ quan, các đoàn thể, trên các báo chí cho đến nhân dân. Phê bình và tự phê bình phải thường xuyên, thiết thực, dân chủ, từ trên xuống và từ dưới lên". Người còn vạch rõ: “Chúng ta không sợ sai lầm, chỉ sợ phạm sai lầm mà không quyết tâm sửa chữa. Muốn sửa chữa cho tốt thì phải sẵn sàng nghe quần chúng phê bình và thật thà tự phê bình". Đồng thời, Người yêu cầu phải tăng cường công tác kiểm tra trong Đảng nhằm "thúc đẩy và giáo dục đảng viên làm trọn nhiệm vụ...,làm gương mẫu cho nhân dân" và xây dựng Đảng vững mạnh, nâng cao sức chiến đấu của Đảng.

Trong giai đoạn hiện nay, khi cả nước đứng trước những vận hội mới và thách thức mới, tiếp tục sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, hơn bao giờ hết chúng ta phải giương cao ngọn cờ lãnh đạo của Đảng, xây dựng các tổ chức chi bộ vững mạnh, rèn luyện tư cách đảng viên với phẩm chất, năng lực ngang tầm nhiệm vụ. Việc nghiên cứu, quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh trong công tác xây dựng Đảng nói chung, trong rèn luyện phẩm chất, tư cách đảng viên cộng sản nói riêng có ý nghĩa vô cùng quan trọng nhằm củng cố tổ chức đảng, xây dựng Đảng vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức, thực sự xứng đáng vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân.

Đại tá, PGS.TS. Đinh Hùng Tuấn

Tư tưởng Hồ Chí Minh về rèn luyện nhân cách Đảng viên Cộng sản

Thứ Năm, 20 tháng 2, 2014

Từ tư tưởng Hồ Chí Minh đối với công tác giáo dục, nghĩ về nền giáo dục hiện nay


1. Trong tập sách "Hồ Chí Minh bàn về công tác giáo dục" do Nhà xuất bản Sự thật Hà Nội ấn hành năm 1972 đã tập hợp nhiều bài viết của Người bàn về công tác giáo dục.
Sợi chỉ đỏ xuyên suốt tập sách này là tư tưởng của Hồ Chí Minh đối với mục tiêu, nội dung, phương pháp giáo dục. Đây chính là cẩm nang, là cơ sở khoa học để Đảng ta vận dụng, lãnh đạo sự nghiệp giáo dục nước ta trong suốt một phần ba thế kỷ qua.

Về mục tiêu giáo dục, Người căn dặn: Trách nhiệm của người thầy "không phải là gõ đầu trẻ để kiếm cơm" mà phải chăm lo, dạy dỗ, đào tạo các em thành người công dân tốt, người lao động tốt, người cán bộ tốt, người chiến sĩ tốt, trung với nước, hiếu với dân, có lòng yêu nước nồng nàn, có đạo đức trong sáng, cần-kiệm-liêm-chính-chí-công-vô-tư, có tri thức và sức khỏe để phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân, làm cho dân giàu, nước mạnh.



Về nội dung giáo dục, Người chỉ rõ: phải chú trọng giáo dục đạo đức cách mạng, giác ngộ xã hội chủ nghĩa, kỹ thuật, lao động sản xuất. Người nhấn mạnh: "Tăng cường hơn nữa việc giáo dục lao động trong nhà trường là một khâu chủ yếu trong toàn bộ sự nghiệp giáo dục xã hội chủ nghĩa, nhằm trang bị cho thế hệ trẻ có những kiến thức khoa học, lại có những kiến thức cơ bản về sản xuất công nghiệp-nông nghiệp, những thói quen lao động, sẵn sàng bước vào xây dựng xã hội chủ nghĩa". Theo Người, nội dung giáo dục phải chứa đựng tính dân tộc, tính khoa họcvà tính nhân dân; phải làm cho người học hiểu được những truyền thống quý báu của dân tộc như tinh thần yêu nước nồng nàn, đoàn kết, tương thân tương ái, anh hùng trong chống giặc ngoại xâm, cần cù trong lao động sản xuất.

Về phương pháp giáo dục, Người chỉ giáo: cách học phải nhẹ nhàng; không gò ép học sinh vào khuôn khổ người lớn, phải đặc biệt chú trọng đến sức khỏe của các cháu, chú trọng bồi dưỡng phương pháp tự phát huy nội lực, tư duy biện chứng Mác - Lê nin, óc tư duy lý luận, tư duy kỹ thuật, tư duy kinh tế, óc phê phán và sáng tạo cho người học.

2. Vận dụng tư tưởng cách mạng của Hồ Chí Minh về công tác giáo dục, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, ngành Giáo dục - đào tạo đã đào tạo được một đội ngũ trí thức có đức, có tài, phục vụ đắc lực cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước. Tuy nhiên bên cạnh những thành tựu ấy, giáo dục lại có nhiều mặt làm cho xã hội quan ngại. Tình trạng giáo dục thiên về "dạy chữ" lơi lỏng về "dạy người" vẫn còn phổ biến. Bàn về công tác đào tạo, gần đây, tại diễn đàn Hội nghị giáo dục, Thủ tướng Phan Văn Khải nhận xét: chất lượng đào tạo của ta còn yếu, đào tạo ít gắn với sản xuất và đời sống, với nghiên cứu khoa học. "Giáo dục lao động trong nhà trường là một khâu chủ yếu trong toàn bộ sự nghiệp giáo dục xã hội chủ nghĩa…" như lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh giờ đây đã trở thành xa vời đối với nhiều trường phổ thông, thay vào đó là "dạy chay", "học chay", dạy thêm, học thêm tràn lan, làm cho học sinh không còn thời gian để nghỉ ngơi, giải trí. Nhu cầu học thêm bị lợi dụng bởi một bộ phận giáo viên với động cơ không trong sáng. Nhiều giáo viên dạy không sâu sát chương trình, thậm chí theo như lời của một cán bộ lâu năm trong ngành Giáo dục thì cách dạy quá hời hợt, cứ y như "chuồn chuồn đạp nước" nhằm ép học sinh đi học thêm, bắt học sinh học thêm để thu tiền thông qua nhu cầu học thêm giả tạo, dưới hình thức "tự nguyện" (?!).

Một thực tế làm nhiều người hết sức lo lắng, đó là phải chăng chất lượng giáo dục hiện nay đang xuống cấp? Liên tiếp trong thời gian qua, các báo, đài đã tốn khá nhiều giấy mực lên tiếng về thực trạng đáng báo động này. Và mới đây tại diễn đàn của kỳ họp thứ 4, Quốc hội khóa XI, nhiều vị đại biểu Quốc hội đã bày tỏ bức xúc trước yếu kém này của ngành Giáo dục. Còn nhớ, trong kỳ thi tuyển sinh đại học, cao đẳng năm 2003, có tới 5.700 thí sinh có cả ba môn thi bị điểm không; 86% số thí sinh có ba môn dưới 15 điểm. Kết quả này được công bố đã gây "sốc" cho các vị quản lý ngành Giáo dục. Người ta đã hoài nghi: phải chăng có sự sai lệch trong quá trình chấm thi của các trường. Và thanh tra Bộ Giáo dục - Đào tạo đã chọn 1.297 bài bị điểm không để chấm lại, kết quả chỉ có 2 bài được nâng điểm, còn 1.295 bài vẫn giữ nguyên điểm không như kết quả chấm ban đầu. Theo đoàn thanh tra, các bài bị điểm không là do thí sinh hổng kiến thức cơ bản, và họ đã kết luận: trình độ của thí sinh yếu kém thật sự.

Vậy đâu là nguyên nhân dẫn đến tình trạng yếu kém này? Điều dễ nhận thấy là phương pháp giáo dục của ta hiện đang còn nhiều bất cập. Báo cáo của Chính phủ tại kỳ họp thứ 4, Quốc hội khóa XI đã chỉ rõ: Phương pháp giáo dục trong các trường học nặng về truyền thụ, áp đặt kiến thức một chiều, thầy giảng trò chép, cách dạy và học nặng về học thuộc lòng, tạo cho học sinh tiếp thu một cách máy móc, chưa khuyến khích tính năng động sáng tạo của người học, chưa coi trọng bồi dưỡng cho học sinh năng lực thực hành… Bên cạnh đó, một yếu tố cũng ảnh hưởng rất lớn đối với chất lượng giáo dục đó là "bệnh thành tích" - một "căn bệnh" đã tồn tại từ nhiều năm nay. Chúng ta đều biết, trong các trường phổ thông có cả một hệ thống quản lý từ hiệu trưởng, hiệu phó, các tổ trưởng bộ môn, thế nhưng giáo viên có ngàn lẻ một cách phù phép để kết quả giảng dạy "đạt cao". Hơn thế nữa chính cán bộ quản lý nhà trường cũng cần có một "tỷ lệ đẹp" để báo cáo với cấp trên. Chính bệnh thành tích này đã đôn dần học sinh yếu lên lớp. Dư luận đặt câu hỏi: tại sao năm học 2002-2003 tỷ lệ học sinh tốt nghiệp THPT cả nước rất cao 92,6% (có tỉnh đạt 99,5%) nhưng trong kỳ thi tuyển sinh đại học, cao đẳng có quá nhiều thí sinh bị cả 3 môn không điểm như vậy.

Chúng ta phải thừa nhận rằng những bất cập về chất lượng và hiệu quả giáo dục đang là một hiện thực. Cách dạy nhồi nhét, dạy tủ, dạy theo lối cũ truyền thống vẫn đang là sức ỳ lớn, một lực cản cho yêu cầu nâng cao chất lượng giáo dục. Những vấn đề cộm cán như bệnh thành tích, vấn nạn dạy thêm học thêm, nạn sính bằng cấp… đã gây ra nhiều vấn đề phức tạp cho xã hội, làm ảnh hưởng đến uy tín của ngành Giáo dục và thanh danh của người thầy. Điều đó đòi hỏi ngành Giáo dục cần mạnh dạn có một "cuộc phẫu thuật" để loại bỏ những "căn bệnh" này, nếu không chúng ta phải đối mặt với những biến cố, hậu quả lớn hơn nhiều. Hy vọng, trong thời gian tới, ngành Giáo dục - đào tạo sẽ sớm có biện pháp khắc phục những yếu kém, bất cập hiện nay, bảo đảm thực hiện nghiêm túc tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục, để giáo dục thật sự là "quốc sách hàng đầu", phục vụ đắc lực công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Hồ Xuân Ánh
(Báo Bình Định)

Từ tư tưởng Hồ Chí Minh đối với công tác giáo dục, nghĩ về nền giáo dục hiện nay

Tư tưởng Hồ Chí Minh về đánh giá và sử dụng cán bộ


Xây dựng đội ngũ cán bộ là một nội dung lớn trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Suốt cuộc đời, Người không ngừng chăm lo bồi dưỡng, huấn luyện đội ngũ cán bộ cho Đảng đủ Đức và Tài để phục vụ sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng CNXH.


Theo Người, ''cán bộ là gốc của công việc'', do đó Người yêu cầu ''phải biết rõ cán bộ” và ''hiểu biết cán bộ'' để có kế hoạch bồi dưỡng, huấn luyện, sử dụng phù hợp. Đánh giá đúng cán bộ tức là xác định chính xác ai tốt ai xấu, ai mạnh chỗ nào, yếu chỗ nào, khả năng hoàn thành công việc đến đâu, quan hệ với quần chúng ra sao để từ đó ''tìm thấy những nhân tài mới... những người hủ hoá cũng lòi ra''.

Cán bộ là con người, vì vậy người cán bộ luôn chịu sự tác động của hoàn cảnh lịch sử, xã hội nên khi đánh giá cán bộ, Hồ Chí Minh luôn đặt cán bộ trong mối quan hệ toàn diện, nhiều chiều, phát triển và không định kiến ''một người cán bộ khi trước có sai lầm, không phải sẽ sai lầm mãi. Cũng có cán bộ đến nay chưa bị sai lầm nhưng chắc gì sau này không bị sai lầm? Quá khứ, hiện tại và tương lai của mọi người không phải luôn luôn giống nhau... lúc cách mạng lên cao thì hăng hái, lúc cách mạng gặp khó khăn thì đâm ra hoang mang'' hoặc ''nhận xét cán bộ không nên chỉ xét ngoài mặt, chỉ xét một lúc, một việc mà phải xét kỹ cả toàn bộ công việc của cán bộ''. Theo Người, phải lấy tiêu chuẩn để đánh giá ''cán bộ nào, phong trào ấy''. Một người cán bộ tốt phải là người có đủ đức và tài, Hồ Chí Minh chỉ rõ: Đức là đạo đức cách mạng, là cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; tài là người có khả năng hành động, làm việc mang lại hiệu quả cao. Đức và tài phải thống nhất với nhau trong đó ''Đức là gốc''.

Một điều quan trọng nữa là người đánh giá cán bộ. Để đánh giá đúng, đòi hỏi người đánh giá phải công tâm, vô tư, khách quan. Do đó, bản thân người đánh giá cũng phải ''tự sửa mình'' để "nếu không biết sự phải trái của mình thì không thể nhận rõ cán bộ tốt hay xấu''. Đặc biệt đánh giá cán bộ phải dựa vào dân, lấy ý kiến của dân, đem ra tập thể bàn bạc và đi đến thống nhất.

Đánh giá đúng cán bộ để Đảng có kế hoạch huấn luyện cán bộ vì ''cán bộ là tiền vốn của Đảng'', ''công việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém'', “Đạo đức cách mạng không phải từ trên trời sa xuống. Nó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hàng ngày mà phát triển và củng cố. Cũng như ngọc, càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong”.

Sử dụng cán bộ thế nào? Theo Hồ Chí Minh, trước hết phải xác định đúng yêu cầu của công việc, ''công việc yêu cầu cán bộ'' và khi bố trí, sử dụng phải tránh sự thiên vị cá nhân. Dùng người là cả một khoa học và nghệ thuật, do đó, nếu bố trí đúng sẽ phát huy mặt mạnh của cán bộ, thúc đẩy được phong trào và còn hạn chế được mặt yếu, mặt dở của họ. Người chỉ ra những khuyết điểm khi sử dụng cán bộ, người quản lý hay mắc phải đó là ''ba ham''. ''Ham dùng người bà con, anh em quen biết, bầu bạn, cho họ là chắc chắn hơn người ngoài. Ham dùng những kẻ nịnh hót mình mà chán ghét những người chính trực. Ham dùng những người tính tình hợp với mình, mà tránh những người tính tình không hợp với mình''.

Người căn dặn 5 vấn đề mà người cán bộ lãnh đạo phải thực hiện khi dùng người:

''Mình phải độ lượng, vị tha thì mới có thể đối với cán bộ một cách chí công -vô tư, không có thành kiến, khiến cán bộ không bị bỏ rơi''; ''Phải có tinh thần rộng rãi, mới có thể gần gũi những người mình không ưa”; ''Phải có tính chịu khó dạy bảo mới có thể nâng đỡ những đồng chí còn kém, giúp cho họ tiến bộ''; ''Phải sáng suốt mới khỏi bị bọn vu vơ bao vây, mà cách xa cán bộ tốt''; ''Phải có thái độ vui vẻ, thân mật, các đồng chí mới vui lòng gần gũi mình''.

Đồng thời, Hồ Chí Minh nhắc nhở phải mạnh dạn cất nhắc cán bộ và thường xuyên luân chuyển cán bộ, chống bệnh ích kỷ, địa phương, kéo bè, chia rẽ phái này phái kia ''phải kết thành một khối không phân biệt, không kèn cựa và giúp đỡ nhau thì công việc mới chạy”. Trong quá trình sử dụng cán bộ phải thường xuyên đánh giá để kịp thời uốn nắn, sửa chữa khuyết điểm cho cán bộ và bố trí lại cán bộ khi cần thiết.

Thực tế, trong cuộc đời làm cách mạng, Hồ Chí Minh đã để lại cho Đảng ta di sản quý báu đó là khoa học và nghệ thuật về đánh giá và sử dụng cán bộ.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng đội ngũ cán bộ có nội hàm hết sức phong phú nên cần được nghiên cứu ở nhiều phương diện. Song, cần khẳng định: Đánh giá cán bộ, sử dụng cán bộ là cả một vấn đề khoa học và nghệ thuật, và phải luôn ghi nhớ lời Bác dạy: “Công việc thành hay bại đều từ cán bộ mà ra''.

Đình Thanh

Tư tưởng Hồ Chí Minh về đánh giá và sử dụng cán bộ

Tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân


Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất coi trọng công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân. Ngay từ năm 1941, dưới sự lãnh đạo của Người, chương trình Việt Minh ghi: "Cần khuyến khích nền thể dục quốc dân, làm cho giống nòi ngày càng thêm mạnh".


Chương trình hành động này còn chỉ rõ: "Lập thêm nhà thương, nhà đỡ đẻ, nhà dưỡng lão". Ngay sau Cách mạng Tháng Tám thành công, ngày 27-3-1946, Người ký Sắc lệnh số 38/SL thiết lập Nha Thanh niên và Thể thao Trung ương, đồng thời Người viết bài: "Sức khỏe và thể dục". Từ năm 1947-1967, Người có 25 bài và thư gửi ngành y tế và thương binh, xã hội, chỉ ra những quan điểm cơ bản về điều trị thương, bệnh binh, kết hợp quân dân y, kết hợp đông y và tây y và công tác khác của ngành y tế.

1- Quan niệm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về sức khỏe và mối quan hệ giữa y lý, y thuật và y đạo trong tư tưởng của Người.

Người quan niệm sức khỏe là gồm có sự thoải mái cả về thể xác lẫn tâm hồn. Ðiều đáng chú ý, Người phát biểu quan niệm này từ năm 1946 và tới năm 1978, Tổ chức Y tế thế giới mới đưa ra định nghĩa về sức khỏe. Người định nghĩa: "Khí huyết lưu thông, tinh thần thoải mái, thế là sức khỏe". Sinh ra tại một vùng "địa linh nhân kiệt" như Nghệ An, nơi cách không xa quê ngoại của Ðại danh y Hải Thượng Lãn Ông (Hương Sơn, Hà Tĩnh), lại lớn lên trong một gia đình nhà Nho có cha đã từng là thầy thuốc đông y làm nghề cắt thuốc trị bệnh cứu người, Chủ tịch Hồ Chí Minh am hiểu sâu sắc về y lý, y thuật và y đạo của Y học phương Ðông. Vì vậy, khi diễn giải về sức khỏe, Người dùng những khái niệm của y học phương Ðông. Theo Y học phương Ðông, huyết là cái xe vận chuyển khí, khí động thì sinh ra tinh, tinh động thì sinh ra thần. Nếu khí không động thì tinh thần tan rã, và như vậy là sinh ra bệnh tật, ốm đau, chết chóc.

Như vậy, chúng ta hiểu định nghĩa về sức khỏe của Chủ tịch Hồ Chí Minh dựa trên y lý của Y học phương Ðông. Ngày nay Y học hiện đại cũng định nghĩa: "Sức khỏe là một tình trạng thoải mái hoàn toàn về thể chất, tinh thần và xã hội, chứ không phải chỉ là một tình trạng không có bệnh tật hay tàn tật". Khởi đầu là sự tiếp thu y lý của Y học phương Ðông, nhưng khi đã tiếp cận với lý luận của triết học Mác về con người, con người vừa là thực thể tự nhiên vừa là thực thể xã hội, thì trong tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh mặt thể chất và mặt tinh thần lại càng được hòa quyện với nhau trong khái niệm sức khỏe và công tác chăm sóc sức khỏe. Một điều quan trọng khi phân tích và học tập tư tưởng Hồ Chí Minh về sức khỏe và công tác chăm sóc sức khỏe mà chúng ta cần lĩnh hội, đó là tính khoa học và tính thống nhất giữa y lý, y thuật và y đạo trong tư tưởng của Người. Chính dựa trên khái niệm đúng đắn về sức khỏe, Chủ tịch Hồ Chí Minh dạy chúng ta về y thuật và đặc biệt Người dạy nhiều về y đạo. Những lời dạy về y thuật và y đạo không phải là những ý ngẫu nhiên hoặc lặp lại một cách đơn thuần những ý hoặc lời của các bậc danh nhân hoặc danh y tiền bối. Chính sự hiểu đúng đắn về sức khỏe, hay nói cách khác, xuất phát từ cơ sở y lý đúng đắn mà Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ cho chúng ta những vấn đề y thuật và y đạo. Ðó là tính khoa học và tính thống nhất sâu sắc trong tư tưởng của Người về sức khỏe. Cũng chính từ cơ sở nhận thức đúng đắn về sức khỏe mà Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhấn mạnh đến y đạo, tức tính cao cả của nghề thầy thuốc và trọng trách của người thầy thuốc.

2- Tư tưởng Hồ Chí Minh về vị trí của công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân.

Trên cơ sở hiểu một cách đúng đắn về sức khỏe, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định vai trò của sức khỏe và vị trí của công tác chăm sóc sức khỏe trong kháng chiến và kiến quốc: Mỗi một người dân yếu ớt, tức là cả nước yếu ớt, mỗi một người dân mạnh khỏe tức là cả nước mạnh khỏe". "Dân cường thì quốc thịnh". "Sức khỏe của cán bộ và nhân dân được bảo đảm thì tinh thần càng hăng hái. Tinh thần và sức khỏe đầy đủ thì kháng chiến càng nhiều thắng lợi, kiến quốc càng mau thành công". Với Chủ tịch Hồ Chí Minh, con người là vị trí trung tâm của mọi hoạt động và quyền được sống là quyền cao nhất của con người. Khi được sống thì sức khỏe là yếu tố quan trọng nhất, nếu không có sức khỏe thì chẳng làm được gì. Chính vì vậy mà Người dạy chúng ta: "Giữ gìn dân chủ, xây dựng nước nhà, gây đời sống mới, việc gì cũng cần có sức khỏe mới làm thành công". Ðó chính là tư tưởng nhân văn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về vai trò của sức khỏe và vị trí của công tác chăm sóc sức khỏe. Có một điều mà chúng ta cần nhận thức sâu sắc, đó là ngay khi cách mạng còn nhiều khó khăn, gian khổ, đời sống của nhân dân còn gian nan, nhưng Chủ tịch Hồ Chí Minh đã rất coi trọng vị trí của công tác chăm sóc và bảo vệ sức khỏe. Người cho rằng: "Sạch sẽ thì ít ốm đau. Sức khỏe thì làm được việc, làm được việc thì có ăn". Như vậy, không phải chỉ khi nào "có ăn" mới lo giữ sức khỏe. Người còn dạy: "Mình dù nghèo, ai cấm mình ăn ở sạch sẽ". Ngày nay, khi liên hệ với nhận thức của một số cán bộ lãnh đạo các cấp, đặc biệt ở địa phương, chúng ta có thể thấy tình trạng coi nhẹ công tác chăm sóc sức khỏe của nhân dân trong địa bàn mình quản lý. Họ thường viện lý cần phải phát triển kinh tế trước, lo cái ăn trước và chăm lo văn hóa xã hội sau. Ðành rằng kinh tế có phát triển thì mới có tiền để mua trang thiết bị dùng để nâng cao chất lượng phòng bệnh và chữa bệnh. Nhưng không vì thế mà lãng quên hoặc coi nhẹ mọi hoạt động của công việc chăm sóc sức khỏe ngay khi bắt đầu xây dựng kinh tế. Hơn thế, câu nói trên của Chủ tịch Hồ Chí Minh còn cho thấy: Chăm sóc sức khỏe cũng góp phần tạo ra của cải xã hội chứ không phải là một công việc chỉ tiêu tốn của cải xã hội.

3- Tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa cá nhân và cộng đồng trong vấn đề chăm sóc sức khỏe.

Theo quan niệm của Chủ tịch Hồ Chí Minh thì sức khỏe của cá nhân và sức khỏe của cộng đồng có quan hệ mật thiết với nhau. Mối quan hệ giữa cá nhân và cộng đồng là một nét đặc sắc trong tư tưởng của Người về chăm sóc sức khỏe. Cơ sở sâu xa của tư tưởng này của Người cũng lại chính là sự tiếp cận của Người với tư tưởng triết học của Mác về con người. Con người có nhu cầu chăm sóc sức khỏe và biết cân bằng mối quan hệ cung cầu trong lĩnh vực này. Câu nói của Người: "Mỗi một người dân yếu ớt, tức là cả nước yếu ớt, mỗi một người dân mạnh khỏe tức là cả nước mạnh khỏe" đã thể hiện rất rõ mối quan hệ giữa cá nhân và cộng đồng trong chăm sóc sức khỏe. Với Chủ tịch Hồ Chí Minh, sức khỏe không chỉ là tài sản cá nhân mà còn là tài sản chung; tạo nguồn sức khỏe không chỉ là trách nhiệm cá nhân mà còn là trách nhiệm của cộng đồng. Bằng cách gắn nhiệm vụ tự chăm sóc sức khỏe với khái niệm yêu nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề cao vị trí của công tác chăm sóc sức khỏe. Theo Người, tự chăm sóc sức khỏe không chỉ vì mục đích cá nhân mà còn có mục đích vì đất nước. Cũng bằng cách đặt vấn đề như vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cụ thể hóa khái niệm yêu nước: Yêu nước không phải là một khái niệm chung chung, mà nó được thể hiện bằng các hành động cụ thể trong cuộc sống hằng ngày. Cách đặt vấn đề của Chủ tịch Hồ Chí Minh như một lời hiệu triệu đi vào lòng người, làm cho toàn dân nô nức thực hiện. Ngày nay, chúng ta không chỉ học tập tư tưởng Hồ Chí Minh mà còn phải học tập cả phương pháp Hồ Chí Minh. Ngoài việc tự chăm sóc sức khỏe, mỗi cá nhân có nghĩa vụ tham gia các hoạt động chăm sóc sức khỏe. Người dạy: "Sạch sẽ tức là một phần đời sống mới. Sạch sẽ thì ít đau ốm, sức khỏe thì làm được việc, làm được việc thì có ăn. Xem đó thì biết rằng ai cũng nên làm đời sống mới".

Ngoài vai trò cá nhân, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh đến vai trò của cộng đồng. Người hết sức coi trọng việc phát động phong trào quần chúng thi đua trong chăm sóc và bảo vệ sức khỏe. Những ngày đầu sau Cách mạng Tháng Tám thành công, Người gọi đó là phong trào xây dựng "Ðời sống mới". Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh phong trào này phải đến với mỗi người và mỗi người phải tham gia. Tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về sức khỏe, vị trí của công tác chăm sóc sức khỏe và mối quan hệ giữa cá nhân và cộng đồng trong chăm sóc sức khỏe nhân dân mãi mãi là cơ sở lý luận cho mọi hành động đúng đắn của chúng ta trong sự nghiệp bảo vệ chăm sóc sức khỏe nhân dân.

GS, TSKH Phạm Mạnh Hùng
Phó Trưởng Ban Khoa giáo T.Ư

Tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân

Tư tưởng Hồ Chí Minh về tự do tín ngưỡng


Nước ta là nước đa tôn giáo, song có hai tôn giáo mà số tín đồ đông nhất là Phật giáo và Công giáo.



Là một người cộng sản theo chủ nghĩa Mác - Lê nin, Chủ tịch Hồ Chí Minh không bao giờ phản đối, bài xích các tôn giáo. Người luôn luôn tỏ thái độ tôn trọng và đề cao vai trò của những vị đã sáng lập ra các tôn giáo. Người nói: "Mục đích cao cả của Phật Thích Ca và chúa Giê-su đều giống nhau. Thích Ca và Giê- su đều muốn mọi người có cơm ăn, áo mặc, bình đẳng, tự do và thế giới đại đồng"

Chủ tịch Hồ Chí Minh chính là mẫu mực của sự tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng và tự do không tín ngưỡng. Người không hề có sự phân biệt đối xử giữa tôn giáo này và tôn giáo khác, giữa người có đạo và người không có đạo. Tư tưởng đoàn kết tôn giáo, hòa hợp dân tộc, không phân biệt tín ngưỡng tôn giáo là tư tưởng nhất quán và trở thành chính sách lớn của Bác.

Hiến pháp năm 1946, Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam độc lập do chính Chủ tịch Hồ Chí Minh trực tiếp chỉ đạo soạn thảo, đã khẳng định quyền tự do tín ngưỡng là quyền tự nhiên của người Việt Nam. Người nghiêm khắc phê phán những biểu hiện vi phạm quyền tự do tín ngưỡng, quan tâm giáo dục cán bộ chính quyền, quân đội và các đoàn thể phải tôn trọng tự do tín ngưỡng, bảo vệ đền chùa, nhà thờ các tôn giáo.

Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, đồng bào lương hay giáo đều là người Việt Nam, đều là người lao động và sự nghiệp cách mạng là việc lớn, 1à sự nghiệp chung không phải chỉ của một hai người. Người kêu gọi: "Lương giáo đoàn kết, toàn dân đoàn kết, cả nước một lòng, nhân dân ta nhất định sẽ thắng lợi trong công cuộc đấu tranh thực hiện hòa bình, thống nhất Tổ quốc, và xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập dân chủ và giàu mạnh"(3).

Người dạy: "Ngày nay, đồng bào cả nước, giáo và lương, đều đoàn kết chặt chẽ, nhất tâm nhất trí như con một nhà, cương quyết giữ vững tự do độc lập..."

Tư tưởng đoàn kết tôn giáo của Chủ tịch Hồ Chí Minh rõ ràng nổi lên quan điểm bỏ qua những dị biệt nhỏ để giữ lấy cái tương đồng lớn; vượt qua những khác biệt về đức tin, lối sống… để giữ lấy tình đoàn kết dân tộc, giữ lấy mục tiêu độc lập, tự do, hạnh phúc.

Giữa tháng 10 năm 1945, vào ngày lễ hành nguyện Phật giáo, trong một bữa tiệc chay được tổ chức tại chùa Quán Sứ (Hà Nội), có tín hữu hai tôn giáo (Công giáo và Phật giáo) tham dự, Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: "Mặc dầu hai tôn giáo có hai giáo lý khác nhau nhưng tôn giáo nào cũng từ bi nhân đạo mà ra, thì không lý gì lúc này cùng là con dân Việt Nam, lại không thể có sự đoàn kết giữa hai tôn giáo được".

Trong bức thư gửi các giám mục và đồng bào công giáo Vinh, Hà Tĩnh, Quảng Bình, ngày 14-10-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: "Đức Giêsu hy sinh vì muốn loài người được tự do hạnh phúc, đồng bào ta cả lương cả giáo cũng vì tự do hạnh phúc cho toàn dân mà hy sinh phấn đấu”(7)

Tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết tôn giáo không chỉ xuất phát từ thực tế đất nước, truyền thống đoàn kết của dân tộc, từ tinh hoa văn hóa dân tộc, từ lý luận Mác - Lê nin xem cách mạng là sự nghiệp của quần chúng... mà còn từ tình cảm yêu thương, lòng nhân ái của Người với đồng bào các tôn giáo. Tấm lòng ấy là bản sắc Hồ Chi Minh luôn biết hòa vào quần chúng, hiểu họ yêu gì, ghét gì và mong muốn điều gì.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết tôn giáo trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc có một ý nghĩa rất to lớn. Nó đã trở thành cơ sở cho việc hình thành chính sách tôn giáo của Đảng và Chính phủ ta trong các giai đoạn cách mạng nhằm phát huy được mặt tích cực của đạo đức tôn giáo trong công cuộc bảo vệ và xây dựng đất nước.

Kể từ luận cương cách mạng tư sản dân quyền năm 1930 đến Nghị quyết Đại hội VII của Đảng năm 1996, từ Nghị quyết đầu tiên của Chính phủ ngày 3-9-1945 đến Nghị định số 26/1999/NĐ-CP ngày 19-4-1999 và trong các bản Hiến pháp của nước ta, Đảng và Nhà nước đều nhất quán tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền tự do tín ngưỡng và đoàn kết tôn giáo.

Nguyễn Xuyến

Tư tưởng Hồ Chí Minh về tự do tín ngưỡng

Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội


Một nội dung cơ bản và nhất quán trong Tư tưởng Hồ Chí Minh là giải phóng dân tộc bằng con đường cách mạng vô sản, cách mạng giải phóng dân tộc phải phát triển thành cách mạng XHCN.
Ngay từ rất sớm Người đã nói rõ "ham muốn" tột bậc của mình là làm sao cho đất nước được hoàn toàn độc lập, dân tộc được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành. Và qua 30 năm ra đi tìm đường cứu nước, cuối cùng Người khẳng định, tin tưởng rằng: chỉ có CNXH mới là con đường để "ham muốn" đó được thực hiện. Tư tưởng của Bác đã trở thành tư tưởng hướng đạo cho cách mạng Việt Nam.

Thực tế cho thấy, độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết thực hiện CNXH và CNXH là cơ sở đảm bảo vững chắc cho độc lập dân tộc. Không giành được độc lập dân tộc thì không có điều kiện để xây dựng CNXH. Độc lập dân tộc thật sự đòi hỏi xóa bỏ áp bức, nô dịch của dân tộc này với dân tộc khác, gắn liền độc lập dân tộc với tự do, bình đẳng, hạnh phúc của nhân dân, do đó chỉ có thể gắn liền với sự phát triển xã hội XHCN. Chính nhờ sự kiên định nội dung tư tưởng đó mà Đảng ta đã lãnh đạo dân tộc đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, viết nên một lịch sử Việt Nam anh hùng với những mốc son chói lọi: Cách mạng Tháng 8 năm 1945, chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954, giải phóng miền Nam thống nhất đất nước và đi lên xây dựng CNXH. Tư tưởng đúng đắn, hợp quy luật, hợp lòng dân đó đã được Đảng quán triệt xuyên suốt trong cả tiến trình cách mạng, đặc biệt là trong quá trình đổi mới.

Đại hội lần thứ VI (12-1986) của Đảng mở đầu thời kỳ đổi mới đất nước đã khẳng định: "Toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta đoàn kết một lòng, quyết tâm đem hết tinh thần và lực lượng tiếp tục thực hiện 2 nhiệm vụ chiến lược, xây dựng thành công CNXH và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN". Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH được thông qua tại Đại hội Đảng lần thứ VII tiếp tục nhấn mạnh: "Nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và CNXH. Đó là bài học xuyên suốt quá trình cách mạng nước ta".

Tiếp tục dòng chảy xuyên suốt và thống nhất đó, Báo cáo chính trị được thông qua tại Đại hội Đảng lần thứ VIII xác định bài học quan trọng đầu tiên đối với cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới là: "Giữ vững mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH trong quá trình đổi mới; nắm vững hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, kiên trì chủ nghĩa Mác - Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh".

Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX (4-2001) - Đại hội đầu tiên của thế kỷ XXI, đại hội của dân chủ, trí tuệ, đoàn kết và đổi mới đã tiếp tục khẳng định: "Trong quá trình đổi mới, phải kiên trì mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH trên nền tảng tư tưởng chủ nghĩa Mác - Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh". Như vậy, mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với CNXH trên thực tế đã trở thành dòng chủ lưu, là tư tưởng xuyên suốt, được quán triệt và đề cao trong sự nghiệp đổi mới mà toàn dân ta đang tiến hành.

Chính nhờ sự kiên định đầy quyết tâm đó cùng với sự lãnh đạo tài tình của Đảng mà nhân dân ta đã đứng vững và tiếp tục kiên trì mục tiêu CNXH trong khi Liên Xô và các nước XHCN ở Đông Âu đã lâm vào thoái trào, tan rã; tạo cơ sở khẳng định vị thế và sức mạnh của cách mạng Việt Nam trên trường quốc tế. Niềm tin đối với Đảng trong lòng nhân dân ngày càng được củng cố, tăng cường, tạo đà cho sự phát triển mạnh hơn, cao hơn, triệt để hơn của thời kỳ CNH-HĐH.

Tuy nhiên, trong giai đoạn hiện nay, trước tình trạng nhiều vấn đề xã hội bức xúc và gay gắt chưa được giải quyết tốt như nạn thiếu việc làm, sự phát triển của tệ nạn xã hội, sự khó khăn về đời sống của một bộ phận nhân dân, bốn nguy cơ mà Đảng ta đã cảnh báo là nguy cơ chệch hướng XHCN, tụt hậu xa hơn về kinh tế, "diễn biến hòa bình" và tệ quan liêu tham nhũng của một bộ phận cán bộ, đảng viên, công chức vẫn tồn tại và diễn biến phức tạp thì việc giữ vững định hướng, mục tiêu XHCN càng trở nên quan trọng hơn bao giờ hết.

Hơn 70 năm chiến đấu và trưởng thành, Đảng ta đã hoàn thành được một phần sứ mệnh lịch sử: đất nước độc lập, thống nhất, đi lên CNXH. Song con đường phía trước không hoàn toàn bằng phẳng, trơn tru. Sự đan xen sâu sắc giữa những thời cơ và thách thức mà thời đại đặt ra, buộc dân tộc ta, Đảng ta và bản thân mỗi người dân Việt Nam chúng ta phải "lớn" hơn ngày hôm qua. Trên bệ phóng của những thành công rực rỡ mà cha ông đã xây dựng, thế hệ trẻ Việt Nam khát khao được là người kế nghiệp xứng đáng. Thiết nghĩ, để khát khao ấy được thắp sáng, điểm xuất phát trước hết phải là sự trung thành đối với Tổ quốc, với lý tưởng của Đảng và của nhân dân, kiên định lập trường cách mạng, thấm nhuần chủ nghĩa Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh trong điều kiện mới, đặc biệt là nhất quyết thực hiện sứ mệnh: bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, xây dựng thành công CNXH.

Thi An
(Báo Bình Định)

Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội

ĐỀ THI MÔN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH


Đề thi Tư tưởng Hồ Chí Minh

ĐỀ THI MÔN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

(Dành cho các ngành sư phạm (K37)
Thời gian làm bài: 90 phút

Câu 1 (5,0 điểm): Trong phần định nghĩa tư tưởng Hồ Chí Minh có đoạn viết: “Tư tưởng Hồ Chí Minh… là kết quả của sự vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin vào điều kiện cụ thể nước ta”. Hãy phân tích và chứng minh luận điểm nói trên.
Câu 2 (5,0 điểm): Từ quan điểm của Hồ Chí Minh về vai trò của đạo đức, hãy nêu lên tầm quan trọng của việc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức sinh viên sư phạm – những thầy cô giáo tương lai.
Ghi chú: Sinh viên được sử dụng tài liệu

---------------------------"---------------------------

ĐỀ THI MÔN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

(Dành cho các ngành sư phạm (K37)
Thời gian làm bài: 90 phút

Câu 1 (5,0 điểm): Anh (chị) hãy phân tích một quan điểm sáng tạo của Hồ Chí Minh
Câu 2 (5,0 điểm): Nhận thức và vận dụng tư tưởng đạo đức “cần, kiệm, liêm, chính” của Hồ Chí Minh trong tu dưỡng, rèn luyện đạo đức của bản thân anh (chị) hiện nay?
Ghi chú: Sinh viên được sử dụng tài liệu

ĐỀ THI MÔN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

Tư tưởng Hồ Chí Minh về thanh niên


Có thể nói rằng, giáo dục lý tưởng và giáo dục đạo đức cách mạng cho thanh niên là một nội dung cốt lõi nhất trong tư tưởng Hồ Chí Minh.


Trong Di chúc, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhiều lần nói về thanh niên với tấm lòng thương yêu vô hạn của vị cha già dân tộc. Người căn dặn chúng ta "Đảng cần phải chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng cho họ, đào tạo họ thành những người thừa kế xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa "hồng" vừa "chuyên"".

Ðiểm nổi bật trong quan điểm giáo dục lý tưởng cho thanh niên của Bác Hồ là đưa thanh niên vào các tổ chức chính trị, xã hội do Ðảng lãnh đạo để vừa giác ngộ lý tưởng cách mạng cho họ, vừa đưa họ hoạt động thực tiễn đấu tranh cách mạng của toàn dân tộc. Ðể chuẩn bị cho việc thành lập Ðảng, năm 1925, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc sáng lập Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên là tiền thân của Ðảng ta sau này. Người trực tiếp lựa chọn và bồi dưỡng, đào tạo những thanh niên yêu nước, có chí khí đấu tranh chống thực dân, phong kiến. Cuốn sách Ðường kách mệnh là tập hợp các bài giảng của Nguyễn Ái Quốc từ năm 1925 đến 1927 cho các lớp thanh niên ưu tú về lý tưởng, đạo đức cách mạng. Những thanh niên yêu nước qua huấn luyện, giáo dục, đào tạo được Bác Hồ đưa về nước hoạt động để thâm nhập vào phong trào yêu nước, phong trào công nhân trở thành những cán bộ cách mạng tiên phong trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc. Trong đó có nhiều người cộng sản trẻ tuổi xuất sắc như Trần Phú, Nguyễn Lương Bằng, Phạm Văn Ðồng, Lê Hồng Phong, Hồ Tùng Mậu,...

Với quan điểm "đạo đức là gốc của người cách mạng", Bác Hồ quan tâm giáo dục thanh niên không chỉ có tinh thần làm chủ nước nhà mà phải thường xuyên rèn luyện, trau dồi đạo đức cách mạng: cần, kiệm, liêm, chính; chí công, vô tư. Bác khuyên thanh niên "hăng hái, xung phong", có chí tiến thủ, không ngại khó khăn, không nề nguy hiểm trong công tác, học tập, chiến đấu. Song, trong cuộc sống, Bác căn dặn thanh niên biết yêu thương gia đình, kính trọng ông bà, cha mẹ, người cao tuổi, nâng đỡ, dìu dắt thiếu nhi, quý trọng và hiếu thảo với nhân dân. Trung với nước, hiếu với dân là nội dung đạo đức mới Bác khuyên nhủ thanh niên cần thực hiện. Người cho rằng, đạo đức cách mạng không phải trên trời sa xuống. Nó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hằng ngày mà phát triển và củng cố. Do đó, thanh niên phải ra sức rèn luyện đạo đức cách mạng, bởi vì "cũng như sông có nguồn thì mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân".

Trong công cuộc kiến thiết đất nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt kỳ vọng vào thanh niên. Nhớ lại năm 1945, khi nước nhà vừa giành độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: Non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay không, dân tộc Việt Nam có bước tới đài vinh quang để sánh vai các cường quốc năm châu được hay không, chính là nhờ một phần lớn ở công học tập của các cháu.

Từ một nước thuộc địa, nửa phong kiến đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, khó khăn lớn nhất là lực lượng sản xuất lạc hậu, cơ sở vật chất kỹ thuật nghèo nàn. Bác Hồ cho rằng, nghèo nàn, lạc hậu là một kẻ địch to, chiến đấu và chiến thắng nghèo nàn lạc hậu còn khó khăn, gian khổ hơn chiến thắng giặc ngoại xâm. Nhất là chúng ta phải xây dựng lại đất nước sau hai cuộc kháng chiến lâu dài, chống chiến tranh xâm lược ác liệt, với sự tàn phá dã man do thực dân Pháp và đế quốc Mỹ gây ra. Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận định: "Ðây là một cuộc chiến đấu chống lại những gì đã cũ kỹ, hư hỏng, để tạo ra những cái mới mẻ, tốt tươi. Ðể giành lấy thắng lợi trong cuộc chiến đấu khổng lồ này cần phải động viên toàn dân, tổ chức và giáo dục toàn dân, dựa vào lực lượng vĩ đại của toàn dân". Trong lực lượng vĩ đại của toàn dân, Bác Hồ dành vị trí hết sức quan trọng cho thanh niên. Tháng 5 năm 1968, Người viết trong bản Di chúc lịch sử: "Những chiến sĩ trẻ tuổi trong các lực lượng vũ trang nhân dân và thanh niên xung phong đều đã được rèn luyện trong chiến đấu và đều tỏ ra dũng cảm. Ðảng và Chính phủ cần chọn một số ưu tú nhất, cho các cháu ấy đi học thêm các ngành, các nghề, để đào tạo thành những cán bộ và công nhân có kỹ thuật giỏi, tư tưởng tốt, lập trường cách mạng vững chắc. Ðó là đội quân chủ lực trong công cuộc xây dựng thắng lợi chủ nghĩa xã hội ở nước ta". (Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội 1999, tr.32). Người còn căn dặn Ðảng ta phải thường xuyên chăm lo giáo dục thanh niên, bởi vì "bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và rất cần thiết".

Nói tóm lại, tư tưởng Hồ Chí Minh về thanh niên nổi bật các quan điểm lớn:

- Thanh niên là lực lượng xung kích chủ yếu của cách mạng, là chủ tương lai của nước nhà.

- Ðảng, Nhà nước phải chăm lo bồi dưỡng, giáo dục lý tưởng và đạo đức cách mạng cho thanh niên, giáo dục ý thức làm chủ và đào tạo họ thành người làm chủ trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, nhất là khoa học kỹ thuật, đào tạo nghề nghiệp. Nghĩa là đào tạo họ trở thành những con người vừa hồng, vừa chuyên.

- Thanh niên phải tự vươn lên, phấn đấu, rèn luyện để thật sự là đội quân chủ lực của cách mạng.

TS Phạm Văn Khánh

Tư tưởng Hồ Chí Minh về thanh niên

Nhận thức đầy đủ, sâu sắc hơn tư tưởng Hồ Chí Minh


Quan điểm cơ bản của Ðảng ta ngày càng được nhận thức rõ hơn là: Chủ nghĩa Marx - Lenin và tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động của Ðảng và của cách mạng Việt Nam.


Quan điểm này được khẳng định qua nhiều kỳ Ðại hội của Ðảng, đặc biệt là Ðại hội VII (6-1991), Ðại hội IX (4-2001) và gần đây là Chỉ thị 23 của Ban Bí thư Trung ương "Về đẩy mạnh nghiên cứu, tuyên truyền, giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh trong giai đoạn mới" (ngày 27-3-2003).

Có nhiều cách tiếp cận tư tưởng Hồ Chí Minh. Có thể tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh theo các mảng về tư tưởng chính trị, triết học, kinh tế, văn hóa... Có những công trình tập trung làm rõ Hồ Chí Minh - Anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới, v.v. Dù tiếp cận cách nào, cũng phải hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống các quan điểm cách mạng và khoa học. Vì vậy nghiên cứu tư tưởng của Người với tinh thần và thái độ khoa học. Theo chúng tôi để nhận thức đầy đủ, sâu sắc hơn tư tưởng Hồ Chí Minh cần làm rõ:

Tư tưởng Hồ Chí Minh là một chỉnh thể. Chỉnh thể tư tưởng Hồ Chí Minh tạo ra một hệ giá trị với một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam. Nói theo tinh thần nhiều nhà khoa học và chính khách trên thế giới thì tư tưởng Hồ Chí Minh được hiểu như một học thuyết, bao gồm một hệ thống những luận điểm được xây dựng trên một nền tảng triết học nhất quán, đại biểu cho ý chí, nguyện vọng của giai cấp công nhân, dân tộc Việt Nam và hiện thân cho khát vọng của các dân tộc vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.

Những quan điểm, quan niệm của Hồ Chí Minh trên nhiều lĩnh vực phản ánh sự nhất quán, xuyên suốt từ cách mạng giải phóng dân tộc đến cách mạng XHCN, với nội dung cốt lõi là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.

Tư tưởng Hồ Chí Minh là sự vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Marx - Lenin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam. Từ những năm hai mươi đến tận cuối đời, Hồ Chí Minh đã nhiều lần nhấn mạnh chủ nghĩa Marx - Lenin là chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mạng nhất; là cái cẩm nang thần kỳ; là mặt trời soi sáng con đường cách mạng của các dân tộc; là vũ khí tư tưởng không thể gì thay thế được... Người khẳng định chúng ta giành được thắng lợi là do nhiều nhân tố, trong đó cần phải nhấn mạnh là "do cố gắng vận dụng những lời dạy của Lê-nin, nhưng vận dụng một cách sáng tạo phù hợp với thực tế Việt Nam" (Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb CTQG, H.1996, T12, Tr 476).

Dân tộc Việt Nam ta có một lòng nồng nàn yêu nước, chủ nghĩa yêu nước là một động lực lớn; là tinh thần đoàn kết, tự tôn dân tộc, lòng nhân ái khoan dung, đức tính cần cù, sáng tạo... Việt Nam dưới thời Pháp thống trị là một thuộc địa nửa phong kiến, trong đó mâu thuẫn dân tộc nổi lên hàng đầu. Hồ Chí Minh chỉ rõ, thuộc địa không phải như nhiều người tưởng, đó chẳng qua "chỉ là một xứ dưới đầy cát và trên là mặt trời, vài cây dừa xanh và mấy người khác mầu da". Ngược lại, "đằng sau sự phục tùng tiêu cực, người Ðông Dương giấu một cái gì đang sục sôi, đang gào thét và sẽ bùng nổ một cách ghê gớm, khi thời cơ đến". Theo Người, "nọc độc và sức sống của con rắn độc tư bản chủ nghĩa đang tập trung ở thuộc địa hơn là ở chính quốc" (Sđd, t1, tr 274).

Nhận thức về vấn đề thuộc địa như vậy là một sáng tạo lớn của Hồ Chí Minh. Trong điều kiện đó, Hồ Chí Minh đã phát triển chủ nghĩa Marx - Lenin, không phải đặt nhiệm vụ giải phóng giai cấp lên trước, mà là giải phóng dân tộc lên hàng đầu. Người đã phát triển nhận thức từ chỗ làm cách mạng tư sản dân quyền (1930), cuộc cách mạng phải giải quyết hai vấn đề: Phản đế và điền địa, đến chỗ cuộc cách mạng tập trung giải quyết một vấn đề cần kíp "dân tộc giải phóng" (1941). Nghị quyết Trung ương VIII (5-1941) do Người chủ trì khẳng định: "Chưa chủ trương làm cách mạng tư sản dân quyền mà chủ trương làm cách mạng giải phóng dân tộc" (Văn kiện Ðảng toàn tập, t7, Nxb CTQG, 2000, tr119).

Xuất phát từ thực tế Việt Nam, Hồ Chí Minh khẳng định cách mạng giải phóng dân tộc thuộc địa có khả năng chủ động giành thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc và tác động trở lại cách mạng chính quốc. Như vậy, nhận thức và cách giải quyết của Hồ Chí Minh góp phần bổ sung làm phong phú lý luận Marx - Lenin về cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa.

Hồ Chí Minh còn có nhiều vận dụng sáng tạo khác như việc thành lập Ðảng Cộng sản ở nước thuộc địa; đại đoàn kết tất cả mọi công dân nước Việt trên cơ sở lực lượng nền tảng là công, nông; dần dần xây dựng chủ nghĩa xã hội trong điều kiện các nước vốn là thuộc địa, kinh tế nông nghiệp lạc hậu, khoa học-kỹ thuật kém phát triển, tiến thẳng lên CNXH bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa. Hồ Chí Minh xác định rõ phải phát huy nội lực, "đem sức ta mà tự giải phóng cho ta" (cả trong sự nghiệp giành độc lập và xây dựng CNXH), đồng thời tranh thủ ngoại lực và kết hợp cả hai loại sức mạnh đó.

Tư tưởng Hồ Chí Minh là sự kết tinh truyền thống văn hóa hàng nghìn năm của dân tộc Việt Nam, chắt lọc tinh hoa văn hóa nhân loại. Tư tưởng Hồ Chí Minh bắt rễ sâu xa từ truyền thống lịch sử, văn hóa hàng nghìn năm của dân tộc Việt Nam, một dân tộc đầy những sự tích kỳ diệu trong cuộc trường kỳ chống thiên tai, địch họa. Trên nền tảng của chủ nghĩa yêu nước, dân tộc Việt Nam lấy nhân nghĩa làm gốc để thắng hung tàn, đề cao bổn phận đối với Tổ quốc; trọng dân, đề cao dân, khoan dung, hòa hợp. Ðó cũng là triết lý phương Ðông mà Hồ Chí Minh đã từng nhắc tới: "Dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh". Tư tưởng "cầu đồng tồn dị" (tìm nét chung để hạn chế cái khác biệt) là một nét đẹp của văn hóa phương Ðông mà có lúc Hồ Chí Minh đã nhắc nhở đồng bào theo tinh thần đó:

"Dân ta xin nhớ chữ đồng

Ðồng tình, đồng sức, đồng lòng, đồng minh"

Hồ Chí Minh đã chắt lọc từ văn hóa dân tộc, phương Ðông và phương Tây khát vọng hòa bình của con người, xây đắp một nền văn hóa hòa bình: Người hiện thân cho lý tưởng chung của nhân loại: Ðộc lập, tự do, bình đẳng, bác ái, hạnh phúc.

Phương pháp Hồ Chí Minh. Với tư cách là chủ thể, Hồ Chí Minh không những là một nhà tư tưởng lớn, nhà chiến lược thiên tài, nhà tổ chức vĩ đại mà ở Người còn nhuần nhuyễn về phương pháp, đặc biệt là phương pháp cách mạng. Về lĩnh vực này, thế giới coi Người là bậc thầy. Phương pháp Hồ Chí Minh không chỉ là một khoa học, mà còn là một nghệ thuật. Ở Hồ Chí Minh, tư tưởng và phương pháp hòa quyện vào nhau. Từ phương pháp luận, Hồ Chí Minh có những phương pháp hành động cụ thể đạt hiệu quả cao trong mọi tình huống. Phương pháp Hồ Chí Minh xuất phát từ truyền thống và thực tiễn Việt Nam dưới ánh sáng chủ nghĩa Marx - Lenin; từ cái tâm, cái đức, trí tuệ, bản lĩnh và niềm tin vào nhân dân, vào thắng lợi của cách mạng không gì lay chuyển được của Người. Hồ Chí Minh là bậc đại trí, đại nhân, đại dũng, luôn kết hợp một cách tài tình lý luận với thực tiễn trên tinh thần "Dĩ bất biến ứng vạn biến". Do đó Người có khả năng lôi cuốn, quy tụ mọi người Việt Nam, các lực lượng cách mạng và tiến bộ trên thế giới. Người giải quyết thành công mối quan hệ thời - thế - lực; thiên thời - địa lợi - nhân hòa...

Hồ Chí Minh nổi bật là một anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới. Chất "anh hùng" và chất "văn hóa" luôn hòa quyện, thống nhất với nhau.

Tư tưởng Hồ Chí Minh cùng với đường lối đúng đắn của Ðảng là ngọn cờ thắng lợi của cách mạng Việt Nam trong hơn 70 năm qua, là tài sản tinh thần vô giá tiếp tục soi sáng sự nghiệp đổi mới, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh, đúng như Mi-ghen Ðê-xtê-pha-nô, giáo sư, cố vấn Viện nghiên cứu Á châu (Cuba) đã viết: "Người không phải là một kỷ niệm của quá khứ. Người là một con người kỳ diệu cho tất cả mọi thời đại. Tất cả những người Cuba, tất cả những người có lương tri trên thế giới nhìn thấy ở Nguyễn Ái Quốc - "Người yêu nước", ở Hồ Chí Minh - "Người chiếu sáng", ở Bác Hồ "Vị Chủ tịch kính yêu".

Trong công cuộc đổi mới, vận dụng sáng tạo và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh, chúng ta cần phát huy trí tuệ, bản lĩnh, tinh thần sáng tạo, đổi mới, độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường, kết hợp chặt chẽ lý luận với thực tiễn, nói đi đôi với làm theo nguyên tắc "Dĩ bất biến ứng vạn biến" với ý thức phục vụ nhân dân cao nhất. Triết lý phát triển Hồ Chí Minh cũng chính là triết lý phát triển Việt Nam trên đường hội nhập và phát triển.

Nhận thức đầy đủ, sâu sắc hơn tư tưởng Hồ Chí Minh

Phép dùng người của Chủ tịch Hồ Chí Minh


Trong lịch sử nhân loại, từ khi có nhà nước thì việc dùng người luôn luôn được đặt ra, nó quyết định sự thành bại của mọi chế độ chính trị, quyết định sự nghiệp của từng nhà chính trị, tướng lĩnh...
Trong hệ thống tư tưởng chính trị và văn hoá Hồ Chí Minh, phép dùng người là một bộ phận đặc sắc và quan trọng nhất. Ta có thể tìm hiểu tư tưởng của Người về dùng người theo một hệ vấn đề sau:

1. “Vô luận việc gì đều do người làm ra''

Với Hồ Chí Minh, nhân dân, con người không bao giờ là phương tiện của các nhà chính trị mà ngược lại nhà chính trị, đảng chính trị… phải nhất quán trong nhận thức và hành động rằng nhân dân là người chủ sở hữu của quyền lực chính trị, con người vừa là mục đích vừa là động lực và sức mạnh của mọi sự nghiệp chính trị. Hồ Chí Minh đã từng nói: nhiều khi đường lối, chính sách đúng nhưng hoặc chưa làm được, hoặc làm được nửa chừng rồi lại nguội, vì chúng ta quên một lẽ rất giản đơn dễ hiểu, tức là vô luận việc gì đều do người làm ra và từ nhỏ đến to, từ gần đến xa, đều thế cả. Công việc Đảng, Nhà nước bao gồm nhiều lĩnh vực đòi hỏi phải có đội ngũ cán bộ, công chức tốt để thi hành công vụ. Từ quan niệm ''vô luận việc gì đều do người làm ra'', Hồ Chí Minh kết luận: có cán bộ tốt, việc gì cũng xong. muốn việc thành công hoặc thất bại, đều do cán bộ tốt hoặc kém.

2. Dùng người vì chính lợi ích của mọi người

Động cơ thôi thúc Hồ Chí Minh là tiến hành sự nghiệp vĩ đại: giải phóng dân tộc, xã hội, con người, trong đó độc lập cho Tổ quốc, tự do, hạnh phúc cho đồng bào; làm cho mọi người ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành. Chính động cơ ấy đã trở thành triết lý nhân sinh, thành sợi chỉ đỏ xuyên suốt toàn bộ chính sách dùng người của Hồ Chí Minh. Động cơ mang tính lý tưởng, khắc đậm chủ nghĩa nhân văn Hồ Chi Minh đã gặp gỡ những mong mỏi và lợi ích đời thường của mọi người lao khổ. Ý chí của Lãnh tụ với mong mỏi của đại đa số quần chúng trở nên đồng thuận một cách tự nhiên. Mọi người tập hợp dưới ngọn cờ của Lãnh tụ, phấn khởi tự hào được là lính Cụ Hồ, tuân theo sự điều khiển của Lãnh tụ: ''Bác bảo đi là đi'', bởi họ tin rằng: ''Bác bảo thắng là thắng''.

3. Yêu người, kính cẩn, thành tín và khoan dung

Các Mác từng nói: muốn mọi người đối xử với mình thế nào thì hãy đối xử với mọi người như vậy. Ngay sau khi Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ra đời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi thư tới UBND các cấp phê phán thói kiêu ngạo, tưởng mình ở trong cơ quan Chính phủ là thần thánh rồi, coi khinh dân gian, cử chỉ lúc nào cũng vác mặt ''quan cách mạng'' lên; không biết rằng, thái độ kiêu ngạo đó sẽ làm mất lòng tin cậy của dân, sẽ hại đến uy tín của Chính phủ. Người căn dặn cán bộ, công chức các cấp: việc gì hại đến dân, ta phải hết sức tránh. Chúng ta yêu dân, kính dân thì dân mới yêu ta, kính ta. Hồ Chí Minh là ngọn cờ tập hợp mọi tầng lớp nhân dân; Người không những có sức cảm hoá, thu phục được những người cùng chí hướng, những tầng lớp, giai cấp cách mạng và những người có cảm tình với cách mạng mà còn cả những người không cùng chính kiến, quan điểm, thậm chí cả kẻ thù của mình. Sở dĩ như vậy là bởi vì, ở Người luôn toát lên sự thẳng thắn, trung thực, tôn trọng lẽ phải, tôn trọng con người và luôn ứng xử với ''lý lẽ phân minh, nghĩa tình đầy đủ'', luôn luôn giải quyết công việc ''có lý, có tình'', xuất phát từ đời sống hiện thực.

4. Hiểu mình và hiểu người

Xưa nay các vĩ nhân làm nên sự nghiệp lớn đều có chung một tư tưởng: ''biết mình, biết người'', ''biết địch, biết ta''. Biết, chính là bí quyết của sự thành công” Hồ Chí Minh đã chỉ ra một số căn bệnh cơ bản làm cho người cán bộ không tự biết được mình. Đó là, cậy thế kiêu ngạo, ưa người phỉnh nịnh mình,tư túi, kinh nghiệm chủ nghĩa, máy móc, giáo điều. Người cán bộ lãnh đạo, quản lý mắc những bệnh tật ấy, thì không hiểu được chính cái mạnh, cái yếu của mình do vậy không thể hiểu được người khác, tựa như mắt đã mang kính có màu, không bao giờ thấu rõ cái mặt thật của những cái mình trông. Muốn biết rõ cán bộ, muốn đối đãi một cách đúng đắn các hạng người, trước hết phải sửa những khuyết điểm của mình. Mình càng ít khuyết điểm thì cách xem xét cán bộ càng đúng Trên cơ sở tự hiểu mình, cần phải có phương pháp xem xét để hiểu cán bộ một cách thấu đáo, ''không nên chỉ xét ngoài mặt, chỉ xét một lúc, một việc” mà phải xét kỹ cả toàn bộ công việc của cán bộ''.

5. Phải khéo dùng người

Theo Hồ Chí Minh, muốn dùng cán bộ đúng thì người cán bộ lãnh đạo cần phải: một là, mình phải có độ lượng vĩ đại thì mới có thể đối với cán bộ một cách chí công vô tư, không có thành kiến, khiến cho cán bộ không bị bỏ rơi. Hai là, phải có tinh thần rộng rãi, mới có thể gần gũi những người mình không ưa. Ba là, phải có tính chịu khó dạy bảo, mới có thể nâng đỡ những đồng chí còn kém, giúp cho họ tiến bộ. Bốn là, phải sáng suốt, mới khỏi bị bọn vu vơ bao vây, mà cách xa cán bộ tốt. Năm là, phải có thái độ vui vẻ thân mật, các đồng chí mới vui lòng gần gũi mình. Khéo dùng cán bộ xuất phát từ việc tập hợp được sức lực và tài năng của mọi người vào việc hoàn thành nhiệm vụ chung. Nếu dùng cán bộ mà để họ hoang mang, sợ hãi, buồn rầu, uất ức hoặc cộng tác không hợp, chắc không thành công được. Vì vậy, muốn cán bộ làm được việc, phải khiến cho họ yên tâm làm việc, vui thú làm việc, phải thực hành những việc sau: làm cho người cán bộ mạnh dạn dám nghĩ, dám nói, dám đề xuất ý kiến; làm cho cán bộ có tinh thần chủ động, dám phụ trách (làm chủ) trong công việc. Phải mạnh dạn cất nhắc cán bộ.

6. Phải nuôi dạy cán bộ

Muốn có cán bộ tốt, thì cơ quan lãnh đạo, quản lý phải nuôi dạy cán bộ như người làm vườn vun trồng những cây cối quý báu. Muốn dùng người thì phải quan tâm săn sóc, giúp đỡ, nghĩa là phải “nâng cao'' người cán bộ, cả về đời sống vật chất và đời sống tinh thần, làm cho người cán bộ ngày càng ''lớn lên'' cùng với sự nghiệp cách mạng. Phải thường xuyên huấn luyện cán bộ để bất cứ cán bộ nào cũng đều ''vững về chính trị, giỏi về chuyên môn''.

7. Phải đổi mới và đan xen các thế hệ cán bộ

Mỗi thế hệ cán bộ sinh ra và trưởng thành trong những hoàn cảnh cụ thể khác nhau, mỗi người đều có những sở trường và sở đoản, cái mạnh và cái yếu nhất định, tuyệt nhiên không ai giống ai. Hồ Chí Minh nhắc nhở: phải thấy cái giới hạn khắc nghiệt của thời gian để tạo nguồn thay thế, bổ sung cho tổ chức những lớp người mới, đủ sức lực và tài năng đảm đương nhiệm vụ theo những yêu cầu mới. Theo Người, cần cán bộ già, đồng thời rất cần nhiều cán bộ trẻ; công việc ngày càng nhiều, càng mới. Một mặt, Đảng phải đào tạo, dìu dắt đồng chí trẻ, mặt khác, đảng viên già phải cố gắng mà học. Việc đổi mới cán bộ phải rất khách quan, công minh, cần lấy việc hoàn thành nhiệm vụ làm căn cứ; phải tổng kết từ phong trào thực tiễn, phát hiện những nhân tố mới, những cán bộ trẻ có đức, có tài để trao nhiệm vụ cho họ. Mặt khác cũng cần tạo điều kiện cho số cán bộ lớn tuổi, đã công tác quá lâu trong các văn phòng có điều kiện thâm nhập thực tế để khỏi lạc hậu với thực tế Vấn đề luân chuyển cán bộ hiện nay là một chủ trương đúng phù hợp với tư tưởng Hồ Chí Minh.

8. Vun trồng lòng tự trọng, tự tin cho cán bộ, giúp họ sửa chữa sai lầm, khuyết điểm

Hồ Chí Minh cho rằng: ai cũng có lòng tự trọng, tự tin; không có lòng tự trọng, tự tin là vô dụng. Vì vậy phải xem xét kỹ trước khi cất nhắc; giúp đỡ, vun trồng, khuyên gắng, khích lệ lòng tự tin, tự trọng; kiểm tra, uốn nắn thường xuyên không để ''tích tiểu thành đại''. Hễ thấy khuyết điểm thì giúp họ sửa chữa ngay, để vun trồng các thói có gan phụ trách, cả gan làm việc của họ. Đồng thời phải nêu rõ những ưu điểm, những thành công của họ. Làm thế không phải làm cho họ kiêu căng mà cốt làm cho họ thêm hăng hái, thêm gắng sức. Phải vun đắp chí khí của họ, để đi đến chỗ ''bại cũng không nản, thắng cũng không kiêu''.

9. Gương mẫu

Hồ Chí Minh đặc biệt nhấn mạng đến vai trò của cán bộ cấp trên. Người đã nhiều lần nhắc nhở đảng viên, cán bộ cấp trên phải làm mực thước cho cán bộ cấp dưới và người ngoài Đảng. “Thượng bất chính, hạ tắc loạn''. Nếu cán bộ cấp trên không gương mẫu thì làm sao có thể bảo ban, hướng dẫn được cấp dưới, làm sao duy trì được kỷ luật Đảng và trật tự kỷ cương phép nước. Hồ Chí Minh đã kịch liệt phê phán thói nể nang, bênh che cho nhau. Người đòi hỏi người cán bộ, đảng viên phải ghi nhớ rằng mình làm cách mạng là để phục vụ nhân dân, phải luôn ghi tạc trong lòng: lo toan công việc chung trước mọi người, hưởng thụ sau mọi người. Chỉ có như vậy mới thu phục, cảm hoá giáo dục được cấp dưới và mọi người.

10. Đổi mới cách lãnh đạo để dùng người

Vì việc mà dùng người. Công việc xây dựng và bảo vệ đất nước luôn luôn đổi mới, phát triển. Do đó, phải không ngừng đổi mới cách lãnh đạo để dùng người. Để lãnh đạo được thì phải học hỏi quần chúng. Điều đó có nghĩa là “người lãnh đạo không nên kiêu ngạo mà nên hiểu thấu'', ''một giây, một phút không thể giảm bớt mối liên hệ giữa ta và dân chúng'', ''phải biết lắng nghe ý kiến của những người không quan trọng”. ''Hiểu thấu'', ''biết lắng nghe'', học hỏi quần chúng, nâng cao nhân dân, ''đưa chính trị vào giữa dân gian'' đã hợp thành một hệ giá trị của văn hoá chính trị và là vấn đề hàng đầu của đổi mới cách lãnh đạo. Nhân dân phải là người được tham gia vào quá trình ra quyết định. Theo Hồ Chí Minh, người ra quyết định thường chỉ ''phán từ trên xuống'', còn người thi hành quyết định lại chỉ ''nhìn từ dưới lên''. Cả hai đều có hạn chế. ''Vì vậy, muốn giải quyết vấn để cho đúng, ắt phải hợp kinh nghiệm cả hai bên lại''. Kiểm soát là điều bắt buộc của lãnh đạo, muốn chống bệnh quan liêu, bệnh bàn giấy, muốn biết các nghị quyết có được thi hành không; muốn biết ai ra sức làm, ai làm qua chuyện, chỉ có một cách là khéo kiểm soát. Việc kiểm soát phải có hệ thống, thường xuyên. Người đi kiểm soát phải là những người có uy tín'', ''phải đi tận nơi, xem tận chỗ'', phải kiểm soát bằng hai cách, từ trên xuống và từ dưới lên, ''tức là quần chúng và cán bộ kiểm soát sự sai lầm của người lãnh đạo và bày tỏ cách sửa chữa sự sai lầm đó''.

Phép dùng người của Hồ Chí Minh đã được thực tiễn lịch sử kiểm nghiệm, khẳng định. Đó là cơ sở lý luận và phương pháp luận của khoa học tổ chức trong tình hình hiện nay.

Nguyễn Văn Cư 
(Báo GTVT)

Phép dùng người của Chủ tịch Hồ Chí Minh

Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh trong giai đoạn mới


Với kết quả nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, Ðại hội IX của Ðảng đã nói rõ hơn những nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh để định hướng cho toàn Ðảng, toàn dân học tập và vận dụng thực hiện trong giai đoạn mới.


Trong những năm đầu thế kỷ 21, đất nước ta có cơ hội lớn và cả thách thức không nhỏ. Tình hình thế giới đang diễn biến phức tạp, nhanh chóng, khó lường. Ðể thực hiện thắng lợi nhiệm vụ cách mạng Việt Nam trong thời kỳ phát triển mới, cần thấm nhuần sâu sắc, vận dụng sáng tạo những nguyên lý và phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh để giải quyết những vấn đề nóng bỏng mà thực tiễn đang đặt ra; nghiên cứu, tuyên truyền, giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh phải trở thành một nhiệm vụ mấu chốt của công tác tư tưởng của Ðảng, cần được toàn Ðảng thực hiện chặt chẽ, có chất lượng và hiệu quả.

Với tinh thần và ý nghĩa đó, ngày 27-3-2003, Ban Bí thư đã ra Chỉ thị số 23-CT/TW về đẩy mạnh nghiên cứu, tuyên truyền, giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh trong giai đoạn mới và nhân dịp kỷ niệm 113 năm Ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đã phát động tổ chức đợt tuyên truyền, giáo dục sâu rộng tư tưởng Hồ Chí Minh. Ðây là một sinh hoạt chính trị rộng lớn, rất quan trọng cần được tổ chức chặt chẽ, khoa học, có hệ thống và sau này phải trở thành nền nếp thường xuyên trong hoạt động của Ðảng và trong đời sống xã hội ta.

Chỉ thị của Ban Bí thư đã được toàn Ðảng, toàn dân, toàn quân ta đón nhận và tổ chức thực hiện với tinh thần tin tưởng, phấn khởi, hào hứng. Hơn một năm qua, các cấp, các ngành, các địa phương, đơn vị đã quán triệt nghiêm túc Chỉ thị 23-CT/TW, tổ chức đợt giáo dục, tuyên truyền sâu rộng, có hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh trong Ðảng và toàn xã hội. Hoạt động nghiên cứu, tuyên truyền, giáo dục, học tập tư tưởng Hồ Chí Minh đã được tổ chức với nhiều hình thức phong phú, đa dạng, sáng tạo và rộng khắp 64 tỉnh, thành trong cả nước, trong mọi tổ chức, đoàn thể, thu hút đông đảo mọi lứa tuổi, mọi đối tượng tham gia. Nhiều công trình, đề tài khoa học, hàng chục cuốn sách và tài liệu nghiên cứu, tuyên truyền tư tưởng Hồ Chí Minh đã được thực hiện và phổ biến rộng rãi. Hàng trăm nghìn lớp học được tổ chức, thu hút hàng chục triệu người tham gia học tập, nghiên cứu 10 chuyên đề về tư tưởng Hồ Chí Minh. Trên các phương tiện thông tin đại chúng và trên lĩnh vực văn học, nghệ thuật, nhiều tác phẩm văn học, báo chí, tuyên truyền về cuộc đời, sự nghiệp, tư tưởng, đạo đức, tác phong Hồ Chí Minh đã được giới thiệu rộng rãi ở trong nước và nước ngoài.

Ðây là lần đầu Ðảng ta phát động và tổ chức đợt nghiên cứu, tuyên truyền, giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh với quy mô rộng lớn và được chỉ đạo thực hiện nghiêm túc, chặt chẽ, khoa học. Ðặc biệt là, cùng với việc nghiên cứu, tuyên truyền giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh trong các tổ chức, đoàn thể và học tập qua trường, lớp, qua sách, báo, trên các phương tiện thông tin đại chúng, Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương đã chỉ đạo hướng dẫn và tổ chức các cuộc thi báo cáo viên giỏi về tư tưởng Hồ Chí Minh từ cấp cơ sở đến toàn quốc; làm cho hoạt động nghiên cứu, tuyên truyền, giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh thêm sinh động hấp dẫn, hiệu quả, ấn tượng và lan tỏa. Các hội thi từ cơ sở đã thu hút sự tham gia của hàng vạn báo cáo viên ở mọi đối tượng, mọi lứa tuổi, là cán bộ, đảng viên, công nhân, viên chức, nông dân, bộ đội, công an, học sinh, sinh viên... Ðỉnh cao của các hội thi là cuộc thi chung khảo toàn quốc được tổ chức rất trang trọng, hoành tráng, ấn tượng, cảm động và đầy ý nghĩa tại Bảo tàng Hồ Chí Minh, thủ đô Hà Nội vào đúng dịp kỷ niệm lần thứ 114 Ngày sinh của Bác (19-5-1890 - 19-5-2004).

Sau hơn một năm thực hiện Chỉ thị 23-CT/TW của Ban Bí thư, hoạt động nghiên cứu, tuyên truyền, giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh trong toàn Ðảng, toàn quân, toàn dân đã đạt được những kết quả bước đầu rất quan trọng, tạo cơ sở cho việc tiếp tục nghiên cứu tuyên truyền, giáo dục và vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh ngày càng sâu sắc hơn. Hoạt động nghiên cứu, tuyên truyền, giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh đã trở thành sinh hoạt chính trị rộng lớn, góp phần nâng cao nhận thức tư tưởng, lý luận của cán bộ, đảng viên và nhân dân. Qua nghiên cứu, học tập tư tưởng Hồ Chí Minh, những băn khoăn, vướng mắc, hoài nghi dao động trong nhận thức về mục tiêu lý tưởng và nền tảng tư tưởng của Ðảng, về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, về bản sắc dân tộc và hội nhập quốc tế v.v... của một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân đã được giải đáp sáng tỏ hơn.

Trên cơ sở nâng cao nhận thức tư tưởng, lý luận, đợt sinh hoạt chính trị lần này đã góp phần củng cố, nâng cao niềm tin và sự kiên định đối với nền tảng tư tưởng của Ðảng ta là chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh; tin tưởng vào sự lãnh đạo của Ðảng và tương lai, tiền đồ của dân tộc, tin tưởng vào thắng lợi của sự nghiệp đổi mới. Tư tưởng Hồ Chí Minh đã từng bước tỏa sáng trong trái tim, khối óc của mỗi người Việt Nam, hướng về cội nguồn dân tộc, trân trọng, tự hào và giữ gìn các giá trị văn hóa, đạo đức truyền thống mà Bác Hồ là biểu tượng và mẫu mực của sự kết tinh các giá trị phương Ðông và giá trị nhân loại. Học tập, nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh là dịp để mỗi người Việt Nam tự nhìn nhận lại chính mình, theo tinh thần Bác Hồ đã dặn: Học để hành, để làm người, để phụng sự Tổ quốc, phụng sự nhân dân, phụng sự giai cấp và nhân loại. Với ý nghĩa đó, tư tưởng Hồ Chí Minh đã tiếp tục khơi gợi tinh thần độc lập tự chủ, đổi mới và sáng tạo để nhìn nhận các vấn đề của dân tộc và thời đại sâu sắc hơn, tỉnh táo hơn, bản lĩnh hơn, trong mỗi chúng ta. Học tập, nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh là thêm một lần khẩu hiệu "sống, chiến đấu, lao động, học tập theo gương Bác Hồ vĩ đại" lại được khắc sâu vào tâm trí mỗi cán bộ, đảng viên và nhân dân ta, tạo động lực tinh thần cho chúng ta tự tin, vững bước đi lên trên con đường mà Ðảng và Bác đã lựa chọn.

Tuy nhiên, trong năm qua, giữa bộn bề khó khăn, thách thức, lo toan, việc nghiên cứu, tuyên truyền, giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh trong toàn Ðảng, toàn quân, toàn dân ta tất nhiên khó tránh khỏi những hạn chế, thiếu sót. Ðiều dễ nhận thấy là còn ít các công trình nghiên cứu khoa học, các tác phẩm văn học, nghệ thuật, báo chí ngang tầm với tư tưởng và sự nghiệp của Bác và đòi hỏi của thực tiễn hiện nay. Tinh thần độc lập tự chủ, đổi mới và sáng tạo của Hồ Chí Minh chưa được nghiên cứu đầy đủ sâu sắc. Tư tưởng của Người chưa được vận dụng một cách toàn diện và gắn chặt với những lĩnh vực cụ thể của từng cấp, từng ngành, từng tổ chức, đơn vị. Việc tuyên truyền, giáo dục tư tưởng của Người được tổ chức trên diện rộng nhưng chưa thật sâu; lan tỏa song chưa tạo được sự chuyển biến thật sự trong hành động của cán bộ, đảng viên và nhân dân. Phải chăng vì nội dung nghiên cứu, tuyên truyền, giáo dục chưa được chuẩn bị thật công phu từ cơ sở; hình thức và phương pháp tuyên truyền, giáo dục ở nhiều nơi còn đơn giản, xuôi chiều. Tính khoa học, tính chiến đấu trong tuyên truyền, giáo dục chưa thật sâu sắc. Một bộ phận cán bộ làm công tác nghiên cứu, tuyên truyền, giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh, nhất là ở cơ sở, chất lượng còn hạn chế, chưa ngang tầm với yêu cầu nhiệm vụ.

Ðể đáp ứng đòi hỏi của sự nghiệp đổi mới và nguyện vọng của đông đảo cán bộ, đảng viên và nhân dân, để xứng đáng với công lao to lớn của Bác Hồ và tầm tư tưởng vĩ đại của Người, nghiên cứu công tác tuyên truyền, giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh cần phải được tiếp tục đẩy mạnh hơn nữa, tiến xa hơn nữa trong thời gian tới.

Ban Bí thư Trung ương Ðảng ra Thông báo kết luận về "Tiếp tục thực hiện tốt Chỉ thị số 23 ngày 27-3-2003 và đẩy mạnh nghiên cứu, tuyên truyền, giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh trong giai đoạn mới" đã chỉ rõ, trong năm 2004, 2005 các cấp ủy, địa phương, đơn vị cần làm tốt một số nhiệm vụ sau:

"Tiến hành rà soát để bổ sung xây dựng chương trình, kế hoạch nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh, bảo đảm việc nghiên cứu, học tập nghiêm túc, thiết thực, phù hợp thực tế của địa phương, đơn vị; nghiên cứu có hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh và chú ý học tập những lời dạy của Người đối với ngành, đoàn thể, địa phương mình. Coi trọng việc đưa tư tưởng Hồ Chí Minh vào cuộc sống, học đi đôi với hành. Gắn việc học tập với rèn luyện, làm theo tư tưởng, đạo đức, lối sống cao đẹp của Người, nâng cao phẩm chất chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên, đoàn viên, hội viên; khắc phục những biểu hiện tiêu cực của chủ nghĩa cá nhân; liên hệ, vận dụng đúng đắn, sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh trong việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị của ngành, đoàn thể, địa phương, đơn vị. Ðẩy mạnh hoạt động nghiên cứu tổng kết thực tiễn làm cơ sở cho việc bổ sung Cương lĩnh và phương hướng, nhiệm vụ của Ðại hội X của Ðảng. Ðấu tranh phê phán, bác bỏ có hiệu quả các quan điểm sai trái, phủ định chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh".

Tiếp tục đẩy mạnh nghiên cứu, tuyên truyền, giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh là nhiệm vụ chính trị quan trọng thường xuyên của toàn Ðảng, toàn quân, toàn dân; là nội dung trọng yếu trong công tác xây dựng Ðảng, là tình cảm, nguyện vọng thiết tha của mọi người Việt Nam. Nghiên cứu, tuyên truyền, giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh phải nhằm mục đích lâu dài, nhất quán, là biến tư tưởng của Người thành hiện thực; hình thành và phát triển tố chất Hồ Chí Minh, tinh thần độc lập, tự chủ, đổi mới và sáng tạo trong mỗi con người Việt Nam.

Nguyễn Viết Thông
Phó trưởng Ban Tư tưởng - Văn hóa T.Ư

Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh trong giai đoạn mới

Thứ Tư, 19 tháng 2, 2014

Tư tưởng Hồ Chí Minh về bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau


Có thể nói rằng, toàn bộ cuộc đời hoạt động cách mạng, sự nghiệp vẻ vang của Bác là chăm lo "trồng người", chăm lo xây dựng thế hệ cách mạng cho đời sau.


Chăm lo giáo dục lý tưởng cách mạng

Lý tưởng cách mạng mà Bác Hồ quan tâm giáo dục cho thế hệ trẻ chính là mục tiêu, con đường cách mạng Việt Nam: Ðộc lập dân tộc gắn liền chủ nghĩa xã hội. Ðây cũng là lý tưởng của Người khi tiếp thụ chân lý khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, trở thành người cộng sản Việt Nam đầu tiên, sau hơn 10 năm trải nghiệm cuộc sống trên khắp các châu lục, lao động, hoạt động trong phong trào công nhân quốc tế và các dân tộc bị áp bức để tìm ra con đường cứu nước, cứu dân là giải phóng dân tộc và tiến lên chủ nghĩa xã hội.

Từ những năm 20 của thế kỷ 20, con đường cứu nước, giải phóng dân tộc, lý tưởng cách mạng của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc có sức hấp dẫn lớn, thu hút lớp lớp thanh niên yêu nước Việt Nam. Năm 1924, để chuẩn bị cho việc thành lập Ðảng, Bác Hồ đã về Quảng Châu (Trung Quốc) thành lập Hội Việt Nam cách mạng thanh niên và ra báo Thanh niên (6-1925). Người trực tiếp mở các lớp huấn luyện, bồi dưỡng lý luận chính trị, truyền bá chủ nghĩa Mác - Lê-nin, lý tưởng, con đường cách mạng, phương pháp hoạt động, cách thức vận động các tầng lớp nhân dân... Ngay từ thời gian ấy, lý tưởng độc lập, tự do và chủ nghĩa xã hội là nội dung cơ bản nhất mà lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc chăm lo giáo dục cho những thanh niên ưu tú, làm nòng cốt cho phong trào cách mạng.

Ðiểm nổi bật trong giáo dục lý tưởng cho thế hệ trẻ là cùng với việc nêu cao lý tưởng, quyết tâm phấn đấu cho giải phóng dân tộc và chủ nghĩa xã hội, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu gương bằng chính cuộc đời hoạt động cách mạng, chịu mọi gian khó, hy sinh, đồng cam cộng khổ với đồng bào, đồng chí. Bác Hồ cho rằng, thực tiễn đấu tranh cách mạng là trường học giáo dục lý tưởng tốt nhất cho thế hệ trẻ. Giác ngộ lý tưởng không chỉ dừng ở nhận thức mà điều có ý nghĩa trong việc thấm nhuần lý tưởng cách mạng là tinh thần và quyết tâm hành động thực hiện lý tưởng. Và khi đã thấm nhuần lý tưởng, quyết tâm phấn đấu cho lý tưởng thì như Người dạy thanh niên:

Không có việc gì khó,
Chỉ sợ lòng không bền
Ðào núi và lấp biển
Quyết chí ắt làm nên!


Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhắc nhở chúng ta, cần quan tâm giáo dục thế hệ trẻ hiểu biết sâu sắc rằng, vì lý tưởng cách mạng giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và chủ nghĩa xã hội mà những chiến sĩ cộng sản tiền bối và biết bao đảng viên cộng sản, lớp lớp đoàn viên, thanh niên đã cống hiến trọn đời, hy sinh bao máu xương.

Lý tưởng cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh giáo dục cho thế hệ trẻ, các thế hệ cách mạng đời sau là chủ nghĩa nhân đạo cộng sản theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê-nin. Ðó là lý tưởng cách mạng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động: Giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người; lấy hạnh phúc của nhân dân, của con người là mục tiêu cao nhất, nhằm đưa lại cho con người cuộc sống ấm no, hạnh phúc, được sống trong xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, trong đó "tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người".

Ðối với Chủ tịch Hồ Chí Minh, giáo dục lý tưởng cách mạng cho thế hệ trẻ không phải là cái gì quá cao xa mà là gần gũi, giản dị, dễ thấy. Chẳng hạn, Người quan niệm chủ nghĩa xã hội là dân giàu, nước mạnh. Trong chủ nghĩa xã hội ai cũng phải làm việc có năng suất, chất lượng và hiệu quả. Ðối với người già, ốm đau thì được xã hội chăm lo nhưng không chấp nhận lười biếng, lười lao động, lười học tập. Phải giáo dục cho mọi người ý thức cần kiệm liêm chính, làm nhiều hưởng nhiều, làm ít hưởng ít, ai không làm thì không hưởng.

Bồi dưỡng, rèn luyện đạo đức

Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm bồi dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng cho thế hệ trẻ, giúp họ phấn đấu vươn lên trong học tập, công tác, chiến đấu, trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, trở thành con người phát triển toàn diện, người chủ xứng đáng của đất nước.

Trong Di chúc, Bác Hồ viết: Ðoàn viên và thanh niên ta nói chung là tốt, mọi việc đều hăng hái xung phong, không ngại khó khăn, có chí tiến thủ. Ðảng cần phải chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng cho họ, đào tạo họ thành những người thừa kế xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa "hồng" vừa "chuyên". Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và rất cần thiết.

Giáo dục đạo đức cho thế hệ trẻ, Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu thanh niên phải thấm nhuần tinh thần làm chủ nước nhà và phải thường xuyên trau dồi, rèn luyện đạo đức cách mạng. Theo quan điểm của Bác Hồ, đạo đức cách mạng là "trung với nước, hiếu với dân" và đạo đức cách mạng phải được thể hiện trong hành động, chỉ có trong hành động, hoạt động trong thực tế đấu tranh cách mạng của nhân dân thì thanh niên mới tỏ rõ được đạo đức của mình.

Chủ tịch Hồ Chí Minh nhiều lần chỉ rõ: Ðạo đức cách mạng là hòa mình với quần chúng thành một khối, tin quần chúng, hiểu quần chúng, lắng nghe ý kiến của quần chúng. Việc bồi dưỡng ý thức làm chủ cũng như giáo dục, rèn luyện đạo đức cho thanh niên là công việc thường xuyên và hết sức công phu, tỉ mỉ. Một mặt là trách nhiệm của các cấp ủy, chính quyền, đoàn thể, mặt khác là sự tự tu dưỡng, rèn luyện của mỗi thanh niên, của thế hệ trẻ. Ðạo đức được Bác Hồ coi là gốc của người cách mạng, là cốt lõi trong nhân cách của con người. Do đó, thanh niên muốn thật sự là chủ tương lai của nước nhà thì cần "luôn luôn trau dồi đạo đức cách mạng; khiêm tốn và giản dị. Chống kiêu căng, tự mãn. Chống lãng phí, xa hoa. Thực hành tự phê bình và phê bình nghiêm chỉnh để giúp đỡ nhau cùng tiến bộ" (Hồ Chí Minh, về giáo dục thanh niên, Nxb Thanh niên, t1.1980, tr376).

Người còn nói: Ðạo đức cách mạng không phải trên trời sa xuống. Nó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hằng ngày mà phát triển và củng cố. Cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong.

Bồi dưỡng tinh thần làm chủ và giáo dục đạo đức cách mạng cho thanh niên, Chủ tịch Hồ Chí Minh không nói những điều chung chung mà Người thường xuyên nêu những việc cụ thể, thiết thực. Bác Hồ luôn nhắc nhở thanh niên trung với nước, hiếu với dân là như thế nào, đồng thời phải luôn luôn hiếu thảo, kính trọng ông bà, cha mẹ, thương yêu mọi người trong gia đình. Giáo dục cho thanh niên biết thương dân, yêu nước, thương nhân loại bị áp bức, bóc lột thì phải chăm lo bảo vệ lợi ích của nhân dân, dám đấu tranh chống những sách nhiễu dân, chống chủ nghĩa cá nhân.

Tại Ðại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 3 Ðoàn TNCS Hồ Chí Minh, Bác Hồ nêu rõ: Chủ nghĩa cá nhân là việc gì cũng chỉ lo cho lợi ích riêng của mình, không quan tâm đến lợi ích chung của tập thể. "Miễn là mình béo, mặc thiên hạ gầy". Nó là mẹ đẻ ra tất cả mọi tính hư, nết xấu như: lười biếng, suy bì, kiêu căng, kèn cựa, nhút nhát, lãng phí, tham ô... Nó là kẻ thù hung ác của đạo đức cách mạng, chủ nghĩa xã hội (Hồ Chí Minh, Toàn tập, t10, tr306).

Dạy nghề, nâng cao trình độ văn hóa, chuyên môn kỹ thuật,

Nổi bật trong tư tưởng Hồ Chí Minh về bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là chăm lo xây dựng các thế hệ người Việt Nam phát triển toàn diện. Do đó, cùng với việc giáo dục lý tưởng, đạo đức cách mạng là chăm lo đào tạo, dạy nghề, nâng cao trình độ văn hóa, khoa học, kỹ thuật cho thanh niên. Ngay sau khi cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trì phiên họp đầu tiên của Chính phủ đã đề nghị một trong những công việc khẩn cấp lúc bấy giờ là diệt giặc dốt, xóa nạn mù chữ. Trong ngày khai giảng năm học đầu tiên của nước Việt Nam độc lập, Bác Hồ viết thư cho học sinh khẳng định: Non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay không, dân tộc Việt Nam có bước tới đài vinh quang để sánh vai với các cường quốc năm châu được hay không, chính là nhờ một phần lớn ở công học tập của các em.

Xuất phát từ nhiệm vụ mới của cách mạng là xây dựng chủ nghĩa xã hội, Chủ tịch Hồ Chí Minh hết sức quan tâm phát triển sự nghiệp giáo dục, đào tạo để nâng cao trình độ văn hóa, khoa học - kỹ thuật và nghề nghiệp cho thế hệ trẻ. Theo quan điểm của Người, chiến thắng nghèo nàn lạc hậu, xây dựng đời sống mới, thực hiện mục tiêu "dân giàu, nước mạnh" còn khó khăn, lâu dài hơn nhiều so với cuộc đấu tranh chống ngoại xâm, giải phóng dân tộc. Chính vì thế, Bác Hồ thường căn dặn, dạy bảo thanh niên phải "ra sức học tập nâng cao trình độ chính trị, văn hóa, khoa học, kỹ thuật và quân sự để cống hiến ngày càng nhiều cho Tổ quốc, cho nhân dân". Và, làm nghề gì cũng phải học, mục đích của việc học không gì khác hơn là để nâng cao năng lực, làm cho kinh tế phát triển, chiến đấu thắng lợi, đời sống nhân dân ngày càng được ấm no, tươi vui.

Tư tưởng quan trọng của Hồ Chí Minh về việc học tập của thế hệ trẻ là giáo dục cho họ học để phụng sự Tổ quốc, phụng sự nhân dân, làm cho nước nhà giàu mạnh và để làm tròn trách nhiệm của người chủ tương lai của đất nước. Vì thế, thanh niên phải học nữa, học mãi, bởi vì, "nếu không chịu khó học tập thì không tiến bộ. Không tiến bộ là thoái bộ. Xã hội càng đi tới, công việc càng nhiều, máy móc càng tinh xảo. Mình mà không chịu học thì lạc hậu, mà lạc hậu là bị đào thải, tự mình đào thải mình" (Hồ Chí Minh, Toàn tập, t9, tr554).

Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, việc bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau phải chăm lo bồi dưỡng, đào tạo đội ngũ cốt cán, bởi "đó là đội quân chủ lực trong công cuộc xây dựng thắng lợi chủ nghĩa xã hội ở nước ta". Chủ tịch Hồ Chí Minh di chúc, nhấn mạnh rằng, những chiến sĩ trẻ tuổi trong các lực lượng vũ trang nhân dân và thanh niên xung phong đều đã được rèn luyện trong chiến đấu và đều tỏ ra dũng cảm. Ðảng và Chính phủ cần chọn một số ưu tú nhất, cho các cháu ấy đi học thêm các ngành, các nghề, để đào tạo thành những cán bộ và công nhân có kỹ thuật giỏi, tư tưởng tốt, lập trường cách mạng vững chắc.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau vô cùng sâu sắc. Ðó là kết tinh trí tuệ và kinh nghiệm cuộc đời hoạt động cách mạng của Người. Vận dụng sáng tạo tư tưởng của Bác Hồ về bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau, chúng ta cần thấm nhuần và thực hiện tốt một số điểm quan trọng:

- Chăm lo bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là chiến lược lớn của cách mạng. Ðảng và Chính phủ quan tâm xây dựng chính sách đúng đắn, chỉ đạo các ngành, các cấp tổ chức thực hiện hiệu quả.

- Quan điểm bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau của Chủ tịch Hồ Chí Minh là cơ sở tư tưởng và lý luận để xây dựng chiến lược phát triển giáo dục, đào tạo. Trong các nội dung giáo dục toàn diện cần coi trọng việc giáo dục lý tưởng, đạo đức cách mạng cho thế hệ trẻ.

- Chăm lo bồi dưỡng, đào tạo đội ngũ nòng cốt cho thanh niên để họ thật sự là đội quân chủ lực trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN, đẩy mạnh CNH, HÐH, đưa nước ta tiến lên, sớm sánh vai các cường quốc năm châu như kỳ vọng của Bác Hồ với thế hệ trẻ.
Phạm Văn Khánh
(Nhân Dân)

Tư tưởng Hồ Chí Minh về bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau