loi, bai, hat, lời bài hát

Thứ Sáu, 10 tháng 10, 2014

Quan điểm của HCM về nội dung xây dựng chủ nghĩa xã hội trong thời kỳ quá độ


- Về chính trị: giữ vững và phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng, làm sao cho Đảng xứng đáng với vai trò Đảng cầm quyền, không trở thành Đảng quan liêu,
xa dân, thoái hóa, biến chất, làm mất lòng tin của dân, có thể dẫn đến sai lầm về đường lối. Đồng thời củng cố, mở rộng Mặt trận dân tộc thống nhất, nòng cốt là liên minh công - nông - trí thức.
- Về kinh tế: Hồ Chí Minh đã đề cập trên các mặt lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất, cơ chế quản lý kinh tế. Người nhấn mạnh đến tăng năng suất lao động trên cơ sở tiến hành công nghiệp hóa đất nước, nhằm phát triển nền kinh tế có cơ cấu nhiều thành phần.
- Về văn hóa - xã hội: xây dựng con người mới, Người cho rằng muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội nhất định phải có học thức, rất coi trọng việc nâng cao dân trí, đào tạo và sử dụng nhân tài, khẳng định vai trò to lớn của văn hóa trong đời sống xã hội.

Quan điểm của HCM về nội dung xây dựng chủ nghĩa xã hội trong thời kỳ quá độ

Tư tưởng hồ chí minh về chủ nghĩa xã hội ở việt nam

1. Tính tất yếu của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam

Nhận thức về chủ nghĩa xã hội, Hồ Chí Minhđã trình bày một cách tổng quát. Chủ nghĩa xã hội là gì?
Người trả lời: chủ nghĩa xã hội là xã hội ngày càng tiến, vật chất ngày càng tăng và tinh thần ngày càng tốt. Nói một cách cụ thể là: chủ nghĩa xã hội là phải làm cho mọi người dân được ấm no, hạnh phúc và học hành tiến bộ.
            Hồ Chí Minh đã tiếp thu, vận dụng sáng tạo lý luận Mác - Lênin về sự phát triển tất yếu của xã hội loài người theo các hình thái kinh tế - xã hội. Quan điểm của Hồ Chí Minh là: tiến lên chủ nghĩa xã hội là bước phát triển tất yếu ở Việt Nam sau khi nước nhà đã giành được độc lập theo con đường cách mạng vô sản.
Mục tiêu giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng vô sản mà Hồ Chí Minh đã lựa chọn cho dân tộc Việt Nam là nước nhà được độc lập, nhân dân được hưởng cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, tức là sau khi giành độc lập dân tộc, nhân dân ta sẽ xây dựng xã hội mới, xã hội xã hội chủ nghĩa. Ngay từ đầu những năm 20 của thế kỷ XX, khi đã tin theo lý luận về chủ nghĩa cộng sản khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh đã khẳng định rằng: “Chỉ có chủ nghĩa cộng sản mới cứu nhân loại, đem lại cho mọi người không phân biệt chủng tộc và nguồn gốc sự tự do, bình đẳng, bác ái, đoàn kết, ấm no trên quả đất, việc làm cho con người và vì con người, niềm vui, hòa bình, hạnh phúc, nói tóm lại là nền cộng hòa thế giới chân chính, xóa bỏ những biên giới tư bản chủ nghĩa cho đến nay chỉ là những vách tường dài ngăn cản những con người lao động trên thế giới hiểu nhau và yêu thương nhau”.

2. Đặc trưng của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.

a. Cách tiếp cận của Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội

 - Hồ Chí Minh tiếp thu lý luận về chủ nghĩa xã hội khoa học của lý luận Mác - Lênin, trước hết là từ khát vọng giải phóng dân tộc Việt Nam.
- Hồ Chí Minh tiếp cận chủ nghĩa xã hội ở phương diện đạo đức, hướng tới giá trị nhân đạo, nhân văn, giải quyết tốt quan hệ giữa cá nhân với xã hội theo quan điểm của Mác và Ăngghen trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản.
- Hồ Chí Minh tiếp cận chủ nghĩa xã hội từ văn hóa. Văn hóa trong xã hội Việt Nam có quan hệ biện chứng với chính trị, kinh tế.

b. Bản chất và đặc trưng tổng quát của chủ nghĩa xã hội

Theo các nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin về chủ nghĩa xã hội, Hồ Chí Minh có quan niệm như sau:
- Tổng quát: chủ nghĩa cộng sản và chủ nghĩa xã hội bao gồm các mặt rất phong phú, hoàn chỉnh, trong đó con người được phát triển toàn diện.                                                                                                                          
- Trên một số mặt nào đó: chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, nhưng không tuyệt đối hóa từng mặt, hoặc tách riêng rẽ từng mặt mà cần đặt trong một tổng thể chung.
- Xác định mục tiêu: vì lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân, nhằm nâng cao đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân.
- Xác định động lực: động lực của toàn dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đó là sức mạnh toàn dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại.
Từ đó, Hồ Chí Minh nhấn mạnh chủ yếu trên những điểm sau:
- Đó là một chế độ chính trị do nhân dân lao động làm chủ.
- Có nền kinh tế phát triển cao, gắn liền với sự phát triển của khoa học - kỹ thuật.
- Không còn người bóc lột người.
- Xã hội phát triển cao về văn hóa, đạo đức.
Các đặc trưng trên thể hiện một hệ thống giá trị vừa kế thừa các di sản của quá khứ, vừa được sáng tạo mới trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội. Chủ nghĩa xã hội là hiện thân đỉnh cao của tiến trình tiến hóa lịch sử của nhân loại.

3. Quan điểm Hồ Chí Minh về mục tiêu, động lực của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.

a. Mục tiêu
- Mục tiêu chung: Độc lập tự do cho dân tộc, hạnh phúc cho nhân dân.
- Mục tiêu cụ thể:
+ Chính trị: chế độ chính trị do nhân dân lao động làm chủ, Nhà nước của dân, do dân, vì dân. Nhà nước có hai chức năng; dân chủ với nhân dân, chuyên chính với kẻ thù của nhân dân.
+ Kinh tế: xây dựng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa với công - nông nghiệp hiện đại, khoa học - kỹ thuật tiên tiến, đời sống vật chất của nhân dân ngày càng được cải thiện.
Bên cạnh đó cần phát triển toàn diện các ngành như công nghiệp, nông nghiệp, thương nghiệp, trong đó “Công nghiệp và nông nghiệp là hai chân của nền kinh tế nước nhà.
+ Văn hóa - xã hội: văn hóa là mục tiêu cơ bản của cách mạng xã hội chủ nghĩa. Phương châm xây dựng nền văn hóa mới là: dân tộc, khoa học, đại chúng. Vì thế, Hồ Chí Minh đặt lên hàng đầu nhiệm vụ của cách mạng xã hội chủ nghĩa là đào tạo con người.
b. Động lực
- Hồ Chí Minhxem xét động lực ở cả các phương diện: vật chất và tinh thần, nội sinh và ngoại sinh. Động lực quan trọng và quyết định nhất là con người, là nhân dân lao động mà nòng cốt là công - nông - trí thức.
- Hồ Chí Minhrất coi trọng động lực kinh tế, phát triển kinh tế, sản xuất kinh doanh, giải phóng mọi năng lực sản xuất, làm cho mọi người, mọi nhà trở nên giàu có, ích quốc lợi dân, gắn liền kinh tế với kỹ thuật, kinh tế với xã hội.
- Hồ Chí Minhcũng rất quan tâm tới văn hóa, khoa học, giáo dục, coi đó là động lực tinh thần không thể thiếu. 
Hồ Chí Minh nhận thấy sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng có ý nghĩa quyết định đối với sự phát triển của xã hội. Đây là hạt nhân trong hệ động lực xã hội.
Ngoài các động lực bên trong, cần phải kết hợp được với sức mạnh thời đại, tăng cường đoàn kết quốc tế, chủ nghĩa yêu nước phải gắn liền với chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân.
Cùng với việc chỉ ra các nguồn lực phát triển, Hồ Chí Minh còn lưu ý, cảnh báo và ngăn ngừa các yếu tố kìm hãm, triệt tiêu nguồn lực vốn có của chủ nghĩa xã hội như: tham ô, lãng phí, quan liêu…
Giữa nội lực và ngoại lực, Hồ Chí Minh xác định, nội lực là quyết định, ngoại lực là rất quan trọng.

Tư tưởng hồ chí minh về chủ nghĩa xã hội ở việt nam

Thứ Bảy, 26 tháng 4, 2014

tư tưởng hồ chí minh về giải phóng dân tộc

1. CM giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải theo con đường CM vô sản:

Trước những thất bại và bế tắc của các phong trào chống Pháp, Nguyễn Tất Thành tìm đường cứu nước, Người nghiên cứu 3 cuộc CM điển hình: CM Mỹ 1776, CM tư sản Pháp 1789 và CM tháng 10 Nga, Người rút ra kết luận:


CM Pháp cũng như CM Mỹ đều là CM tư sản, CM không đến nơi, tiếng là Cộng hòa dân chủ, kỳ thực trong thì nó tước lục công nông, ngoài thì nó áp bức thuộc địa, chúng ta đã hi sinh làm CM thì làm đến nơi, làm sao khi CM rồi thì quyền giao lại cho dân chúng số nhiều, thế thì dân chúng khỏi phải hi sinh nhiều lần, dân chúng mới hạnh phúc.

Trong thế giới bây giờ chỉ có CM tháng 10 là thành công và thành công đến nơi, nghĩa là dân chúng được hưởng hạnh phúc tự do bình đẳng thật sự.

Tiếp xúc với luận cương của Lê Nin, Người tìm thấy ở đó con đường giải phóng dân tộc và chỉ rõ: Các đế quốc vừa xâu xé thuộc địa, vừa liên kết nhau đàn áp CM thuộc địa; Thuộc địa cung cấp của cải và binh lính đánh thuê cho đế quốc để đàn áp CM chính quốc và thuộc địa. Vì thế giai cấp vô sản chính quốc và thuộc địa có chung kẻ thù và phải biết hỗ trợ nhau chống Đế quốc.


2. CM giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải do Đảng của giai cấp CN lãnh đạo:


Trong các phong trào chống Pháp trước 1930 ở nước ta đã xuất hiện các đảng phái, hội, đoàn thể như Duy Tân Hội, Việt Nam Quang Phục Hội, Việt Nam Quốc Dân Đảng,… nhưng những Đảng này thiếu đường lối đúng đắn, thiếu tổ chức chặt chẽ, thiếu cơ sở rộng rãi trong quần chúng nên không thể lãnh đạo kháng chiến thành công và bị tan rã với các khuynh hướng cứu nước theo hệ tư tưởng phong kiến, tư sản.

Từ thắng lợi của CM Tháng 10 Nga do Đảng CS lãnh đạo, người khẳng định: CM giải phóng dân tộc muốn thắng lợi, trước hết phải có Đảng lãnh đạo, không có Đảng chân chính lãnh đạo CM không thể thắng lợi. Đảng có vững CM mới thành công, người cầm lái có vững thì thuyền mới chạy. Đảng muốn vững thì phải có CN làm cốt. Không có chủ nghĩa cũng như người không có trí khôn, không có kim chỉ nam. Đảng phải xác định rõ mục tiêu, lý tưởng CNCS, phải tuân thủ các nguyên tắc tổ chức sinh hoạt Đảng theo học thuyết Đảng kiểu mới của Lê Nin.

3. CM giải phóng dân tộc là sự nghiệp của toàn dân, trên cơ sở liên minh công nông:


CN Mác Lê Nin khẳng định CM là sự nghiệp của quần chúng nhân dân, nhân dân lao động là người sáng tạo và quyết định sự phát triển lịch sử.

Người chủ trương đưa CM Việt Nam theo con đường CM vô sản, nhưng chưa làm ngay CM vô sản, mà thực hiện CM giải phóng dân tộc, giải quyết mâu thuẫn dân tộc với đế quốc xâm lược và tay sai. Mục tiêu là giành độc lập dân tộc. Vì vậy CM là đoàn kết dân tộc, không phân biệt thợ thuyền, dân cày, phú nông, trung, tiểu địa chủ, tư sản bản xứ,… ai có lòng yêu nước thương nòi sẽ cùng nhau thống nhất mặt trận, thu gom toàn lực đem tất cả ra giành độc lập tự do, đánh tan giặc Pháp Nhật xâm lược nước ta.

Tập trung mọi lực lượng trong mặt trận để chống cường quyền, nhưng phải lấy công nông làm gốc. Đây là lực lượng đông đảo, nhưng lại bị 2, 3 tầng áp bức, là lực lượng có tinh thần CM triệt để nhất. 

4. CM giải phóng dân tộc cần được tiến hành chủ động, sáng tạo và có khả năng giành thắng lợi trước CM vô sản chính quốc:


Khi CN Đế quốc xâm lược thuộc địa, CM giải phóng dân tộc có khuynh hướng phát triển, nhưng lúc đó quốc tế CS lại đánh giá thấp CM giải phóng thuộc địa.

Nghiên cứu luận cương của Lê Nin về CM thuộc địa và xuất phát từ áp bức của CN Đế quốc với thuộc địa, Hồ Chí Minh lập luận về nguyên nhân của CM thuộc địa : “ Người Đông Dương không được học, nhưng đau khổ, đói nghèo và sự bạo ngược của CN Thực Dân là người thầy dạy mầu nhiệm của họ; người Đông Dương sẽ tiến bộ một cách nhanh chóng khi thời cơ cho phép và họ biết tỏ ra xứng đáng với những người thầy dạy của họ.””Không, người Đông Dương không chết, người Đông Duơng sống mãi. Bên cạnh sự phục tùng tiêu cực, Người Đông Dương sống âm ỷ và sẽ bùng nổ mãnh liệt khi thời cơ đến.”

Tại ĐH V Quốc tế CS (6/1924): Nguyễn Ái Quốc lập luận về vai trò của CM thuộc địa: "Vận mệnh của giai cấp vô sản ở các chính quốc gắn chặt với vận mệnh các giai cấp bị áp bức ở các thuộc địa. Nọc độc và sức sống của rắn độc TBCN đang tập trung ở các thuộc địa, nếu khinh thường CM thuộc địa  là muốn đánh rắn chết đằng đuôi.”


Hồ Chí Minh chỉ rõ tính chủ động của CM thuộc địa: Thuộc địa là mắc xích yếu nhất trong hệ thống CNĐQ, trong khi đó nhân dân thuộc địa luôn có tinh thần yêu nước, căm thù xâm lược, họ sẽ vùng lên khi thời cơ đến. Vì vậy, năm 1924 Nguyễn Ái Quốc khẳng định: CM thuộc địa không những không phụ thuộc vào CMVS chính quốc mà có thể nổ ra và giành thắng lợi trước CM chính quốc và khi hoàn thành CM thuộc địa họ có thể giúp đỡ giai cấp vô sản chính quốc phương Tây trong nhiệm vụ giải phóng hoàn toàn.

5. CM giải phóng dân tộc phải được thực hiện bằng con đường bạo lực, kết hợp lực lượng chính trị của quần chúng với lực lượng nhân dân:


Theo CN Mác Lê Nin, có nhiều phương pháp giành chính quyền từ tay giai cấp thống trị. Những kẻ thù không bao giờ tự nguyện giao chính quyền cho nhân dân. Vì vậy CM muốn thắng lợi phải dùng bạo lực của quần chúng nhân dân để giành chính quyền.

Hồ Chí Minh khẳng định: Ở các nước thuộc địa, CN thực dân dùng bạo lực phản CM đàn áp các phong trào yêu nước. CM giải phóng dân tộc muốn thắng lợi thì phải dùng bạo lực CM chống lại bạo lực phản CM. Bạo lực phản CM là bạo lực của quần chúng gồm lực lượng “chính trị” của quần chúng và lực lượng “vũ trang” với 2 hình thức đấu tranh chính trị và vũ trang kết hợp với nhau.

Để giành chính quyền phải bằng bạo lực, trước hết là khởi nghĩa vũ trang của quần chúng. Trong thời đại mới, thời đại CM vô sản thì cuộc khởi nghĩa vũ trang phải có sự ủng hộ của CM vô sản thế giới, CM Nga, thậm chí với CM vô sản Pháp.

Tư tưởng về CM bạo lực gắn liền với tư tưởng về xây dựng lực lượng vũ trang được Hồ Chí Minh suy nghĩ từ sớm và khi trở thành chủ trương của Đảng tại hội nghị trung ương 8 (5/1941), Người kết luận: cuộc CM Đông Dương được kết liễu bằng khởi nghĩa vũ trang. Căn cứ vào tương quan so sánh lực lượng vào thiên thời, địa lợi. Hồ Chí Minh bàn tới khởi nghĩa từng phần, mở rộng cho cuộc tổng khởi nghĩa to lớn giành chính quyền trong cả nước.

tư tưởng hồ chí minh về giải phóng dân tộc


tư tưởng hồ chí minh về vấn đề dân tộc


tư tưởng hồ chí minh về vấn đề dân tộc


1. Độc lập dân tộc là quyền thiêng liêng và bất khả xâm phạm của mỗi dân tộc:


Là dân nước nô lệ đi tìm đường cứu nước, nhiều lần chứng kiến tội ác dã man của CN thực dân đối với đồng bào mình và các dân tộc bị áp bức trên thế giới, người thấy rõ một dân tộc không có quyền bình đẳng vì dân tộc đó mất độc lập, tự do.


Muốn có bình đẳng dân tộc thì các dân tộc thuộc địa phải được giải phóng khỏi chủ nghĩa thực dân. Nên độc lập dân tộc phải thể hiện ở 3 điểm sau: 

Dân tộc đó phải được độc lập toàn diện về chính trị, kinh tế, an ninh, toàn vẹn lãnh thổ và quan trọng nhất là độc lập về chính trị.

Nền độc lập thực sự phải được thể hiện ở cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc của người dân.

Vì thế, nền độc lập của Việt nam phải theo nguyên tắc nước Việt nam của người Việt Nam, mọi vấn đề về chủ quyền quốc gia phải do người dân Việt Nam tự quyết định, không có sự can thiệp của nước ngoài.

2. Vấn đề dân tộc kết hợp nhuần nhuyễn với vấn đề giai cấp, độc lập dân tộc gắn liền với CNXH:


CN Mác Lê Nin đã giải quyết triệt để vấn đề này: (vấn đề dân tộc luôn gắn với vấn đề giai cấp, phụ thuộc vào vấn đề giai cấp, và dân tộc bao giờ cũng do một giai cấp đại diện, quan hệ này là quan hệ lợi ích, giai cấp phong kiến và tư sản đã từng đại diện cho dân tộc và giải quyết quan hệ lợi ích giai cấp và lợi ích dân tộc nhưng không triệt để, còn nhiều mâu thuẫn ví dụ vua quan Nhà Nguyễn đầu hàng Pháp, bảo vệ lợi ích của dòng tộc, Pháp đầu hàng Đức,…)

Ngày nay với tính chất, đặc điểm và địa vị lịch sử của mình chỉ có giai cấp CN mới có thể đại diện cho dân tộc và giải quyết đúng đắn quan hệ lợi ích này. Chỉ có giai cấp CN mới xóa bỏ triệt để nạn người bóc lột người, nhờ đó xóa bỏ tình trạng dân tộc này nô dịch dân tộc khác, giải phóng giai cấp công nhân cũng là giải phóng mọi giai tầng, xã hội khỏi sự phân chia thành giai cấp, mâu thuẫn xung đột giai cấp, vì thế giai cấp CN phải giành lấy chính quyền, tự mình vươn lên thành giai cấp dân tộc.

Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo quan điểm nêu trên của chủ nghĩa Mác Lê Nin vào Cách mạng giải phóng dân tộc, Người chỉ rõ 2 điểm:

Các nước Đế quốc xâm lược cướp bóc thuộc địa làm cho mâu thuẫn giữa CN Đế quốc và thuộc địa nổi lên gay gắt. Giải quyết mâu thuẫn này đòi hỏi phải tập hợp đoàn kết mọi lực lượng chống chủ nghĩa đế quốc. Ngày nay chỉ có giai cấp Công nhân mới có thể đoàn kết và lãnh đạo được mọi giai tầng làm Cách mạng giải phóng dân tộc.

Ở các nước thuộc địa, chủ nghĩa yêu nước, tinh thần độc lập dân tộc là một động lực to lớn, đây là chủ nghĩa dân tộc chân chính. Vì thế, khi cách mạng giải phóng dân tộc thắng lợi, thì chủ nghĩa dân tộc ở đó nhất định sẽ biến thành chủ nghĩa quốc tế (thành chủ nghĩa Cộng sản).

Vì thế, những người cộng sản ở các nước thuộc địa phải tự nắm lấy ngọn cờ dân tộcgiải quyết vấn đề dân tộc theo quan điểm của giai cấp CN.

3. Chủ nghĩa yêu nước gắn liền với nghĩa vụ quốc tế:


Chủ nghĩa yêu nước chân chính và chủ nghĩa quốc tế không đối lập mà thống nhất với nhau. Vì thế:
Mỗi dân tộc phải đấu tranh giành và giữ độc lập cho dân tộc mình đồng thời phải ủng hộ cuộc đấu tranh giành độc lập của các dân tộc khác. Đây là sự gắn bó giữa chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế trong sáng, giữa tinh thần dân tộc tự quyết với nghĩa vụ quốc tế.

Sau cách mạng tháng 8, trả lời nhà báo Mỹ “Êly Mây si” về chính sách đối ngoại của Việt Nam, Hồ Chí Minh khẳng định: . . .Việt nam can thiệp vào công việc nội bộ của các nước khác, đồng thời kiên quyết chống lại mọi âm mưu, hành động xâm phạm quyền tự do, độc lập của Việt Nam,… 


Như vậy, ở Hồ Chí Minh, dân tộc và giai cấp, quốc gia và quốc tế, độc lập dân tộcvà CNXH gắn bó thống nhất với nhau, vì thế, mỗi Đảng cộng sản phải chịu trách nhiệm trước dân tộc của mình, Cách mạng mỗi nước phải do người dân nước đó tự giành lấy, nhưng người nêu khẩu hiệu: giúp bạn là tự giúp mình, người luôn quan tâm giúp đỡ CM các nước Xiêm, Lào, Campuchia, Trung Quốc chống Nhật, phải bằng thắng lợi của Cm mỗi nước mà đóng góp vào thắng lợi chung của CM thế giới.

tư tưởng hồ chí minh về vấn đề dân tộc

ý nghĩa của việc học tập nghiên cứu tư tưởng hồ chí minh


Ý nghĩa của việc học tập nghiên cứu TTHCM


1. TTHCM là chủ nghĩa Mác Lê Nin ở Việt Nam:


TTHCM hình thành phát triển trên nền tảng thế giới quan, phương pháp luận và nhân sinh quan  chủ nghĩa Mác Lê Nin, thuộc hệ tư tưởng giai cấp công nhân. Hồ Chí Minh đã sáng tạo chủ nghĩa Mác Lê nin vào đường lối CMVN. Vì vậy, Đại hội 7 nhắc nhở phải học tập TTHCM.


2. Cốt lõi TTHCM là độc lập dân tộc gắn liền với CNXH:


Suốt đời Hồ Chí Minh đã lựa chọn và nhất quán đi theo con đường đã chọn. Dưới ngọn cờ tư tưởng ấy, cách mạng nước ta đã giành hết thắng lợi này đến thắng lợi khác, mang tầm vóc thời đại. Cốt lõi của TTHCM là độc lập dân tộc gắn liền với CNXH. Độc lập dân tộc là để xây dựng thành công CNXH và ngược lại. Xây dựng CNXH thực chất là giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội, con người.

3. TTHCM là mẫu mực của tinh thần độc lập tự chủ, tự lực tự cường:


Để phát triển đất nước theo định hướng XHCN vững vàng, độc lập dân tộc đòi hỏi phải khai thác nhân tố bên trong, đồng thời mở rộng hợp tác quốc tế, sử dụng có hiệu quả nhân tố đó đòi hỏi phải nâng cao tinh thần tự chủ, tự lực tự cường, tổng kết thực tiễn, phát triển lý luận để hoạch định sự phát triển đất nước.

Nắm TTHCM là có vũ khí sắc bén tiếp cận thế giới hiện đại, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đưa sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc tới những thuận lợi mới.



- Theo Hồ Chí Minh những chuẩn mực chung nhất của nền đạo đức cáchmạng Việt Nam gồm những điểm sau:

Một là,

trung với nước hiếu với dân.Đây là phẩm chất quan trọng nhất, bao trùm nhất và chi phối các phẩmchất khác.Từ khái niệm cũ "trung với vua, hiếu với cha mẹ" trong đạo đức truyềnthống của xã hội phong kiến phương Đông, Hồ Chí Minh đưa vào đó một nộidung mới, phản ánh đạo đức ngày nay cao rộng hơn là “Trung với nước hiếuvới dân”. Đó là một cuộc cách mạng trong quan niệm đạo đức.“Trung với nước hiếu với dân, suốt đời phấn đấu hy sinh vì độc lập tự docủa Tổ quốc vì chủ nghĩa xã hội, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nàocũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”. Câu nói đó của Người vừa là lờikêu gọi hành động, vừa là định hướng chính trị-đạo đức cho mỗi người Việt Nam không phải chỉ trong cuộc đấu tranh cách mạng trước mắt, mà còn lâu dàivề sau

Hai là,

yêu thương con ngườiQuan niệm của Hồ Chí Minh về con người rất toàn diện và độc đáo. HồChí Minh đã xác định tình yêu thương con người là một trong những phẩm chấtđạo đức cao đẹp nhất. Người dành tình yêu thương rộng lớn cho những ngườicùng khổ. Những người lao động bị áp bức bóc lột, Người viết: "Tôi chỉ có mộtsự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độclập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũngđược học hành"Hồ Chí Minh yêu thương đồng bào, đồng chí của Người, không phân biệthọ ở miền xuôi hay miền ngược, là trẻ hay già, trai hay gái... không phân biệtmột ai, không trừ một ai, hễ là người Việt Nam yêu nước thì đều có chỗ trongtấm lòng nhân ái của Người.Tình yêu thương của Người còn thể hiện đối với những người có sai lầmkhuyết điểm. Với tấm lòng bao dung của một người cha, Người căn dặn, chúngta: "Mỗi con người đều có thiện và ác ở trong lòng ta, phải biết làm cho phầntốt ở trong mỗi con người nảy nở như hoa mùa xuân và phần xấu bị mất dần đi,đó là thái độ của người cách mạng. Đối với những người có thói hư tật xấu, từhạng người phản lại Tổ quốc và nhân dân, ta cũng phải giúp họ tiến bộ bằngcách làm cho cái phần thiện trong con người nảy nở để đẩy lùi phần ác, chứkhông phải đập cho tơi bời"Trong Di chúc, Người căn dặn Đảng: Phải có tình đồng chí thương yêulẫn nhau, nhắc nhở mỗi cán bộ, đảng viên luôn luôn chú ý đến phẩm chất yêuthương con người

Ba là,

cần kiệm liêm chính, chí công vô tư.Theo Hồ Chí Minh thì: Cần tức là lao động cần cù, siêng năng; lao độngcó kế hoạch, sáng tạo, có năng suất cao; lao động với tinh thần tự lực cánh sinh,không lười biếng, không ỷ lại, không dựa dẫm. Phải thấy rõ "lao động là nghĩavụ thiêng liêng, là nguồn sống, nguồn hạnh phúc của chúng ta".

Kiệm tức là tiết kiệm sức lao động, tiết kiệm thì giờ, tiết kiệm tiền củacủa dân, của nước, của bản thân mình; phải tiết kiệm từ cái to đến cái nhỏ,nhiều cái nhỏ cộng lại thành cái to; "không xa xỉ, không hoang phí, không bừa bãi", không phô trương hình thức, không liên hoan, chè chén lu bù.Liêm tức là "luôn luôn tôn trọng giữ gìn của công và của dân"; "khôngxâm phạm một đồng xu, hạt thóc của Nhà nước, của nhân dân". Phải "trongsạch, không tham lam". "Không tham địa vị. Không tham tiền tài. Không thamsung sướng. Không ham người tâng bốc mình. Vì vậy mà quang minh chínhđại, không bao giờ hủ hoá".Chính, "nghĩa là không tà, thẳng thắn, đứng đắn". Đối với mình: không tựcao, tự đại, luôn chịu khó học tập cầu tiến bộ, luôn tự kiểm điểm để phát triểnđiều hay, sửa đổi điều dở của bản thân mình.Đối với người: không nịnh hót người trên, không xem khinh người dưới,luôn giữ thái độ chân thành, khiêm tốn, đoàn kết thật thà, không dối trá, lừa lọc.Đối với việc: để việc công lên trên, lên trước việc tư, việc nhà.Chí công vô tư, Người nói: "Đem lòng chí công vô tư mà đối với người,với việc". “Khi làm bất cứ việc gì cũng đừng nghĩ đến mình trước, khi hưởngthụ thì mình nên đi sau”; phải "lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ".

Bốn là,

tinh thần quốc tế trong sáng. Đó là, tinh thần đoàn kết quốc tế vôsản, mà Hồ Chí Minh đã nêu lên bằng mệnh đề "Bốn phương vô sản đều là anhem"; là tinh thần đoàn kết với các dân tộc bị áp bức, với nhân dân lao động cácnước, mà Hồ Chí Minh đã dày công vun đắp bằng hoạt động cách mạng thựctiễn của bản thân mình và bằng sự nghiệp cách mạng của cả dân tộc.

Quá trình hình thành tư tưởng hồ chí minh - TTHCM


Quá trình hình thành 

1. Giai đoạn hình thành tư tưởng yêu nước và chí hướng Cách mạng 1890 – 1911: 

Thời trẻ sống trong môi trường gia đình, quê hương, Hồ Chí Minh tiếp thu kế thừa truyền thống yêu nước, nhân nghĩa của dân tộc, vốn văn hóa quốc học, hán học và bước đầu tiếp thu văn hóa phương Tây, chứng kiến cảnh sống nô lệ lầm than của dân tộc, tiếp thu tinh thần bất khuất của các bậc cha anh, hình thành hoài bão cứu nước cứu dân. 

2. Giai đoạn tiến tới khảo nghiệm 1911 – 1920: 

Đi qua 30 nước, chặng đường 22 vạn km, tìm hiểu các cuộc cách mạng lớn của thế giới, khảo sát cuộc sống của các dân tộc bị áp bức, tiếp xúc với cương lĩnh Lê Nin, tiến thẳng con đường giải phóng dân tộc chân chính.

Người đứng hẳn về quốc tế 3, tham gia sáng lập Đảng cộng sản Pháp. Sự kiện đó đánh dấu bước chuyển biến về bản chất tư tưởng của Người, từ chủ nghĩa yêu nước đến chủ nghĩa Mác Lê Nin, từ giác ngộ dân tộc đến giác ngộ giai cấp, từ người yêu nước trở thành người cộng sản.

3. Giai đoạn hình thành cơ bản TTHCM về con đường Cách Mạng Việt Nam1920 – 1930: 

Hồ Chí Minh hoạt động tích cực trong ban nghiên cứu thuộc địa Đảng Cộng sản Pháp.

Sáng lập Hội Liên Hiệp thuộc địa.

Xuất bản báo “Leparia“ tuyên truyền chủ nghĩa Mác vào thuộc địa.

Ngày 13/6/1924 sang “Mascơva” dự Đại hội 5 quốc tế cộng sản, Đại hội quốc tế nông dân, Đại hội quốc tế Thanh niên, Quốc tế cứu tế đỏ, công hội đỏ.

Tháng 12/1924 về Quảng Châu, tổ chức Việt Nam Thanh Niên Cách Mạng Đồng Chí Hội, xuất bản báo Thanh Niên, mở lớp huấn luyện hội Cách Mạng đưa về nước hoạt động.

Viết tác phẩm “Bản án chế độ thực dân Pháp” và “Đường Cách Mệnh”.

Tháng 2/1930 chủ trì hợp nhất các tổ chức cộng sản trong nước, sáng lập Đảng cộng sản Việt Nam, soạn các văn kiện, các văn kiện này cùng với tác phẩm bản án… đường Cách Mệnh,… đánh dấu sự hình thành về cơ bản tư tưởng Hồ Chí Minh. 

4. Giai đoạn vượt qua thử thách, kiên trì con đường cách mạng được xác định 1930 – 1941: 

Do không sát tình hình Đông Dương, lại bị chi phối bởi quan điểm tả khuynh của Đại hội 6 (1928) quốc tế Cộng Sản đã chỉ trích đường lối Hồ Chí Minh vạch ra trong Hội Nghị 3/2/ 1930 (Cải lương, dân tộc chủ nghĩa dẫn tới hẹp hòi, không quan tâm đấu tranh giai cấp, không quan tâm cách mạng thế giới, không thành lập liên bang Đông Dương)

Vì thế Hội nghị Trung Ương 10/1930, ra “án Nghị quyết”, thủ tiêu văn kiện 3/2/1930, đổi tên Đảng; thời gian này, Hồ Chí Minh tiếp tục hoạt động ở quốc tế Cộng Sản, nghiên cứu chủ nghĩa Mác Lê Nin và chỉ đạo cách mạng Việt Nam, kiên định bảo vệ quyết định của mình.

Đại hội 7 Quốc tế cộng sản (1935) đã tự kiểm điểm, phê bình về khuynh hướng “Ta”, “Cô độc”, “hẹp hòi”, dẫn tới buông lơi ngọn cờ dân tộc, dân chủ để cho các Đảng TTS của các nước nắm lấy chống phá Cách Mạng.

Vì thế ĐH 7 chỉ đạo chuyển hướng chiến lược Cách mạng thế giới, tập trung thành lập mặt trận dân chủ chống phát xít, chống chiến tranh, bảo vệ hòa bình.

Đến 1936, Đảng ta càng thấy được những khuynh hướng biệt phái, cô độc, tả khuynh, hẹp hòi trước đây và chuyển dần hướng chỉ đạo chiến lược, từng bước trở về với đường lối văn kiện 3/2 với tư tưởng Hồ Chí Minh. 

5. Giai đoạn hiện thực hóa TTHCM: 

Ngày 28/1/1941, Hồ Chí Minh về nước trực tiếp lãnh đạo Cách Mạng, Người đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu, tháng 5/1941, chủ trì Hội Nghị Trung Ương 8 quyết định “tạm gác” khấu hiệu ruộng đất, xóa bỏ vấn đề liên bang Đông Dương, thành lập mặt trận Việt Minh, đại đoàn kết dân tộc, cơ sở liên minh công nông nhờ đó Cách Mạng Tháng 8 thành công. Đó cũng là thắng lợi đầu tiên của Hồ Chí Minh.

Sau cách mạng tháng 8, cả nước phải tiến hành kháng chiến chống Pháp lần 2 và kháng chiến chống Mỹ cứu nước, vừa xây dựng CNXH ở miền Bắc, vừa giải phóng miền Nam. Đây là thời kỳ tư tưởng Hồ Chí Minh được bổ sung, phát triển hoàn thiện, một loạt vấn đề cơ bản gồm: đường lối chiến tranh nhân dân toàn dân toàn diện, xây dựng CNXH ở một nước vốn là thuộc địa nửa phong kiến, quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ Tư bản chủ nghĩa bởi điều kiện đất nước bị chia cắt, có chiến tranh, xây dựng Đảng cầm quyền, xây dựng nhà nước kiểu mới của dân, do dân và vì dân, củng cố phong trào cộng sản, CN quốc tế.

Trước khi qua đời, Người để lại một bản di chúc thiêng liêng kết tinh những giá trị đạo đức, tư tưởng, nhân cách, tâm hồn cao đẹp của một người lãnh tụ vĩ đại, suốt đời phấn đấu hy sinh vì Tổ quốc, nhân dân và nhân loại. Di chúc tổng kết sâu sắc những bài học đấu tranh thắng lợi của CMVN, vạch định hứơng mang tính cương lĩnh cho sự phát triển đất nước sau khi kháng chiến thắng lợi.

nguồn gốc hình thành tư tưởng hồ chí minh

nguồn gốc hình thành tư tưởng hồ chí minh

Tư tưởng HCM bắt nguồn từ những nhân tố cơ bản sau đây: 

2.1. Truyền thống lịch sử văn hóa của dân tộc Việt Nam:


Là người con ưu tú nhất của dân tộc, Tư tưởng HCM bắt nguồn trước hết từ những truyền thống tốt đẹp của dân tộc; quê hương gia đình.


Chủ Nghĩa yêu nước Việt Nam:

Tinh thần anh hùng bất khuất trong công cuộc dựng nước và giữ nước là dòng chảy xuyên suốt lịch sử, là nhân tố đứng đầu, là giá trị tinh thần con người Việt Nam, là đạo lý làm người, là niềm tự hào dân tộc, là bản sắc văn hóa tạo thành động lực, thành sức mạnh tồn tại và phát triển của dân tộc suốt 4000 năm.

ĐH 2 (2/1957) HCM khẳng định: “Dân tộc ta có một lòng yêu nước nồng nàn, đó là truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và cướp nước”.

Truyền thống đoàn kết tương thân tương ái:

Nhân nghĩa, thủy chung, cưu mang đùm bọc, lá lành đùm lá rách,… truyền thống này bắt nguồn từ yêu cầu chống thiên tai thường xuyên của dân tộc. Kế thừa nâng cao truyền thống này trong quá trình Cách mạng, Hồ Chí Minh luôn yêu cầu cán bộ, Đảng viên, Nhân dân ta phải thực hiện bốn chữ: Đồng lòng, Đồng sức, Đồng tình, Đồng minh.


Hồ Chí Minh tiếp thu truyền thống tốt đẹp của dân tộc bắt đầu từ truyền thống quê hương, gia đình.

Nghệ Tĩnh, quê hương người là mãnh đất giàu truyền thống yêu nước, chống ngoại xâm, là vùng địa linh, nhân kiệt, nơi sản sinh nuôi dưỡng nhiều anh hùng dân tộc như Mai Thúc Loan (chống nhà Đường, xây thành Vạn An 722), Nguyễn Biễu, tướng nhà Trần, Đặng Dung, Phan Đình Phùng, Phan Bội Châu, Phạm Hồng Thái, Trần Phú; nơi có thành quách, đại vạc, đại huệ do Hồ Quý Ly, Hồ Hán Thương xây dựng, có di tích thành Lục Niên do Lê Lợi xây dựng.

Là nơi con người hiếu học: sự học như một nghề luôn được quan tâm, lo lắng, hãnh diện, tự hào, luôn hướng tới sự thành đạt bằng nghề đèn sách, khoa bảng.

Nơi sinh đại thi hào, danh nhân Nguyễn Du, từ 1635 – 1901 có 193 người đậu tú tài, cử nhân, có một Nguyễn Sinh Sắc đậu đại khoa phó bảng.

Truyền thống gia đình: Tư tưởng Hồ Chí Minh bắt nguồn trước hết từ truyền thống gia đình bên nội, ngoại, nhất là Tư tưởng, phong cách của Nguyễn Sinh Sắc_ Thân sinh Hồ Chí Minh.

Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc là người bị mồ côi cha, mẹ từ nhỏ, nhà nghèo, thông minh, có ý chí kiên cường, nghị lực quả cảm phi thường, khắc phục mọi khó khăn quyết thực hiện bằng được chí hướng của mình, chiếm lĩnh đỉnh cao của trí tuệ, là người sống gần gũi với dân, có lòng thương dân sâu sắc, ông chủ trương dựa vào dân để thực hiện mọi cải cách Chính trị, xã hội, thường xuyên trăn trở con đường cứu nước, cứu dân, luôn liên hệ với Phan Bội Châu, Nguyễn Thiệu Quý, Trần Thâu, … những người có tư tưởng yêu nước mưu đại sự. 

Hồ Chí Minh chịu ảnh hưởng sâu sắc lòng vị tha, nhân hậu, thủy chung cần mẫn của người mẹ, tình yêu thương nhân hậu sâu nặng của ông bà ngoại,…


2.2. Tinh hoa văn hóa nhân loại:

Tinh hoa văn hóa phương Đông:

Trước hết là Nho giáo: Hồ Chí Minh coi trọng kế thừa và phát triển những mặt tích cực của Nho giáo. Đó là thứ triết học hành động, tư tưởng nhập thế, hành đạo, giúp đời, triết lý nhân sinh: tu thân, dưỡng tính, đề cao văn hóa, đạo đức, lễ giáo, nhân nghĩa, Trí, Tín, Cần, Kiệm, Liêm, Chính. Người phê phán những hạn chế, tiêu cực của Nho giáo như tư tưởng đẳng cấp, quân tử, tiểu nhân, chính danh định phận, coi khinh phụ nữ, lao động chân tay, thuế nghiệp doanh lợi,…

Với Phật giáo, người tiếp thu tư tưởng vị tha, chân, thiện, từ bi, cứu nạn, cứu khổ, thương người như thể thương thân, lối sống đạo đức, trong sạch giản dị, chăm làm điều thiện (không nói dối, không tà dâm, không sát sinh, không trộm cắp, không uống rượu,…)
Phật giáo Thiền tông vào Việt Namđề ra luật chấp tác: Nhất nhật bất tác, nhất nhật bất thực, thiền phái Trúc Lâm Việt Namchủ trương nhập thế gắn với dân chống kẻ thù xâm lược.

Người tiếp thu lòng nhân ái, hi sinh cao cả của Thiên chúa giáo.

Người tiếp thu chủ nghĩa Tam dân của Tôn Trung Sơn (dân tộc độc lập, dân quyền tự do, dân sinh hạnh phúc)


Chủ Nghĩa Tôn Dật Tiên có ưu điểm là chính sách Tam dân thích hợp với ta. Khổng Tử, Giê Su, Mác, Đức Phật, Tôn Dật Tiên chẳng có những ưu điểm đó sao? Các vị ấy đều mưu cầu hạnh phúc cho loài người, cho xã hội. Nếu các vị ấy còn sống trên cõi đời này, nếu các vị ấy hợp lại một chỗ, tôi tin rằng các vị ấy nhất định sẽ sống với nhau hoàn mỹ như những người bạn thân nhất.

Tôi nguyện là học trò nhỏ của các vị ấy.

Tinh hoa văn hóa Phương Tây:

Xuất thân từ gia đình khoa bảng, tư chất thông minh, trình độ quốc học, hán học vững vàng, người học hỏi không ngừng khi bôn ba năm châu bốn biển, đã thông thái những ngôn ngữ tiêu biểu cho nền văn minh của nhân loại, người am tường văn hóa Đông, Tây, kim cổ, người tượng trưng cho sự kết hợp hài hòa văn hóa Đông Tây.

Nguyễn Sinh Sắc (1863 – 1929) 66 tuổi: mồ côi cha lúc 3 tuổi, mồ côi mẹ lúc 4 tuổi, ở với người anh nhà nghèo lao động vất vả.
Ông được cụ Hoàng Đường (ông Đồ) ở Hoàng Trù xin về nuôi dạy cho ăn học và gã con gái (Hoàng Thị Loan 1868 – 1901).

Ông rất thông minh, có chí lớn học hành vào loại tứ hổ trong vùng (uyên bác bất như San, tài hoa bất như Quý, chường ký bất như Lương, thông minh bất như Sắc: nghĩa là uyên bác không ai bằng Phan Văn San, tài hoa không ai sánh bằng Nguyễn Thúc Quý, tài giỏi không ai qua Trần Văn Lương, thông minh không ai địch nổi Nguyễn Sinh Sắc).

1883: Xây dựng gia đình: 1884 sinh Nguyễn Thị Thanh (Bạch Liên).
1888 sinh Nguyễn Tất Đạt _ Nguyễn Sinh Khiêm.
1890 sinh Nguyễn Tất Thành _ Nguyễn Sinh Cung
1893 cụ Hoàng Đường mất.
1894 thi hương đậu cử nhân.
1895 vào Huế thi đại khoa không đậu.
1896 vào Huế học ở Quốc Tử Giám (cả nhà vào Huế, cuộc sống rất khó khăn: Khiêm Cung = Khơm Công = Không Cơm).
1898 thi lần 3 không đậu.

 Tháng 8/1900 đi làm thư kí hội đồng thi hương ở Thanh Hóa, ở Huế bà Loan sinh con thứ 4 và mất 22 tháng chạp. 10 tuổi, Nguyễn Sinh Cung phải chịu mất mát quá lớn. Tết năm đó một mình bé bồng bế người em út mẹ mới sinh thờ cúng mẹ trong tang thương, hương khói, hoa huệ trên bàn thờ, trên mộ. Trong lúc bố và các anh chị xa vắng, ấn tượng đó khắc sâu tâm khảm, người đi suốt đời.

5/1901 lo tang cho vợ con xong, ông vào Huế thi và lần này đậu phó bảng. Sau mấy thế kỷ mới có người đỗ đạt cao như vậy. (Dân mang kèn trống, võng lọng, cờ biển ra rước, nhưng ông nói (tôi đậu cũng chẳng có ích gì cho bà con hàng xóm mà bà con phải đón rước); 200 quan , không lên đài lễ lấy lý do vợ con mới mất, lấy tiền, lấy gạo chia cho dân nghèo làm vốn sản xuất, có người giữ được vốn đó đến 1945.

Có người gọi ông là “quan phó bảng” ông viết: vật dĩ quan gia, vi ngô phong dạng…

1905 sau nhiều lần từ chối (1902, 1903, 1904) ông phải vào Huế làm việc ở triều đình với chức “THỪA BIỆN BỘ LỄ” (Bộ lễ lo lễ nghi, thiên văn, bói toán, học hành, bình thơ)

Nhất là bộ lại bộ binh

Nhì thì bộ hộ, bộ hình

Thứ ba thì đền bộ công

Nhược bằng bộ lễ lạy ông tôi về. 
                 
1908 ông bị triều đình khiển trách vì để Nguyễn Tất Thành, Đạt tham gia biểu tình chống thuế.

1909 Triều đình điều ông đi làm tri huyện Bình Khê: ông thường bỏ huyện đường đi (không mang theo lính lệ) dàn xếp đất đai, ông thừơng phàn nàn: nước mất không lo,…, ông tìm cách thả tù chính trị.

Giữa 1910, Nguyễn Tất Thành lên Bích Khê. Ông hỏi: “Con lên đây làm gì? Con lên tìm cha, ông trìu mến nói: nước mất không lo tìm, tìm cha phỏng có ích gì”

Sau đó cha con chia ly lịch sử ở cầu Bà Đi của hai cha con.

Sau đó ông bị Triệt hồi chức Tri huyện do lơ là công việc ở huyện đường, thả tù chính trị, xử tù địa chủ Tạ Đức Quang, đánh đòn hắn, sau hai tháng hắn chết, vợ hắn kiện, ông bị bắt giam, bị xử đánh 100 trăm trượng, nhưng xét không có thù oán gì nên tha tội.

Ba mươi (30) năm sống ở nước ngoài, chủ yếu ở Châu Âu, người chịu ảnh hưởng sâu rộng những giá trị văn hóa dân chủ và cách mạng của phương Tây.

Người tiếp thu tư tưởng tự do, bình đẳng, bác ái của đại Cách mạng Pháp ( Khi học ở Vinh, ở Huế, người đã chủ tâm tìm hiểu những tư tưởng này, sau này khi trở lại Pháp 1917, người tiếp thu tận gốc những phương pháp này trong các tác phẩm của các nhà khai sáng Pháp: Mông Teskiô, Rút xô, Vin Tie)

Nghiên cứu Cách mạng Tư sản Mỹ 1776, người tiếp thu tư tưởng tự do, nhân quyền. Trong tuyên ngôn độc lập của Mỹ, người gia nhập công đoàn thủy thủ và tham gia các cuộc đấu tranh của chủ nghĩa chống Tư bản (lần đầu bước vào hoạt động chính trị)

Cuộc sống, lao động và hoạt động Cách Mạng của Người gắn liền với những người lao động, giai cấp Công nhân ở các nước chính quốc, thuộc địa đã mang lại cho Người tình yêu thương giai cấp, yêu thương những người lao động, những người cùng khổ một cách sâu sắc.

Vận dụng những tư tưởng tiến bộ và Cách mạng của Cách mạng Pháp, Mỹ vào các cuộc sinh hoạt ở câu lạc bộ “Gia cô Banh” (xuất hiện lúc đại Cách mạng Pháp 1789, ở đó người ta trao đổi đủ thứ: từ kinh tế đến chính trị, văn hóa, nghệ thuật, tôn giáo, thiên văn, địa lý, thôi miên, trồng cải soong, nuôi ốc sên,…, siêu hình thuyết mộng du, luân hồi, Người thường lái những cuộc tranh luận đó sang vấn đề Việt nam, vấn đề thuộc địa,..) ở câu lạc bộ “Phô Bua” (do Đảng xã hội Pháp tổ chức, là tổ chức duy nhất bênh vực các dân tộc thuộc địa): Người phê phán Phong Kiến Việt Nam, khẳng định phê phán toàn quyền Đông Dương An Be Xa Rô; Liôtây. Varen,… Thông qua sinh hoạt phong cách dân chủ của người điển hình trong thực tiễn, là cơ sở để hình thành chính kiến trong Đại hội Đảng xã hội Pháp ở Tua 1920 và trở thành người Cộng Sản.

2.3. Chủ nghĩa Mác Lê Nin – Thế giới quan, phương pháp luận của tư tưởng HCM


Chủ nghĩa Mác Lê Nin là đỉnh cao trí tuệ nhân loại bao gồm 3 bộ phận cấu thành:

Triết học giúp Hồ Chí Minh hình thành thế giới quan, phương pháp biện chứng, nhân sinh quan, khoa học, Cách Mạng, thấy được những quy luật vận động phát triển của thế giới và xã hội loài người.

Kinh tế chính trị học vạch rõ các quan hệ xã hội được hình thành phát triển gắn với quá trình sản xuất, thấy được bản chất bốc lột của chủ nghĩa Tư bản đối với CN, xóa bỏ bốc lột gắn liền với xóa bỏ quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa và sự chuyển biến tất yếu của xã hội loài người từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa cộng sản

Chủ Nghĩa xã hội KH vạch ra quy luật phát sinh, hình thành, phát triển của hình thái kinh tế xã hội cộng sản chủ nghĩa, những điều kiện, tiền đề, nguyên tắc, con đường, học thức, phương pháp của giai cấp CN, nhân dân lao động để thực hiện sự chuyển biến xã hội từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội, cộng sản.

Như vậy, chủ nghĩa Mác Lê Nin với bản chất Cách mạng và khoa học của nó giúp Người chuyển biến từ Chủ nghĩa yêu nước không có khuynh hướng rõ rệt thành người cộng sản, chủ nghĩa yêu nước gắn chặt với chủ nghĩa quốc tế, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, thấy vai trò của quần chúng nhân dân, sứ mệnh lịch sử của giai cấp CN, liên minh công nông trí thức và vai trò lãnh đạo của đảng cộng sản trong cách mạng giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội, giải phóng con người, bảo đảm thắng lợi cho chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản.

2.4. Những nhân tố chủ quan thuộc về phẩm chất cá nhân của Hồ Chí Minh:


Là người có đầu óc thông minh sáng suốt, năng lực tư duy độc lập, sáng tạo, học vấn uyên bác, năng lực phân tích, so sánh, đối chiếu, tổng hợp sâu sắc.

Có sự khổ công học tập, rèn luyện nhằm chiếm lĩnh vốn trí thức đồ sộ của nhân loại, tiếp thu kinh nghiệm, bề dày của phong trào cộng sản và chủ nghĩa quốc tế, phong trào giải phóng dân tộc.

Có tấm lòng yêu nước, thương dân, thương yêu những con người cùng khổ vô bờ bến, một chiến sĩ cộng sản quả cảm, nhiệt thành sẵn sàng hy sinh cho tổ quốc, nhân dân, dân tộc và nhân loại.

Có ý chí nghị lực kiên cường, những phẩm chất được tôi luyện đã quyết định việc Hồ Chí Minh tiếp thu, chọn lọc, chuyển hóa, phát triển những tinh hoa của dân tộc, thời đại thành những tư tưởng đặc sắc độc đáo của mình.

khái niệm tư tưởng hồ chí minh - khai niem tu tuong ho chi minh

khái niệm tư tưởng hồ chí minh

Khái quát khái niệm tư tưởng hồ chí minh, Báo cáo chính trị Đại hội 9 (tháng 4/2001) khẳng định: “TTHCM là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của CMVN, là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo CN Mác Lênin, vào điều kiện cụ thể nước ta, đồng thời là kết tinh tinh hoa dân tộc và trí tuệ thời đại về giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con người, bao gồm:


  • Tư tưởng hồ chí minh về dân tộc và Cách Mạng giải phóng dân tộc.
  • Tư tưởng  hồ chí minh về CNXH và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam.
  • Tư tưởng  hồ chí minh về Đảng Cộng Sản Việt Nam.
  • Tư tưởng  hồ chí minh về Đại Đoàn Kết dân tộc.
  • Tư tưởng  hồ chí minh về Quân sự.
  • Tư tưởng  hồ chí minh về Xây dựng nhà nước của dân, do dân và vì dân.
  • Tư tưởng  hồ chí minh về kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh của thời đại.
  • Tư tưởng đạo đức  hồ chí minh .
  • Tư tưởng nhân văn  hồ chí minh .
  • Tư Tưởng văn hóa  hồ chí minh .

TTHCM soi đường cho cuộc đấu tranh của nhân dân ta giành thắng lợi, là tài sản tinh thần to lớn của Đảng và dân tộc ta, tiếp tục soi sáng để nhân dân ta tiến lên xây dựng một nước Việt Namhòa bình, thống nhất độc lập và XHCN giàu mạnh.
Thứ Năm, 27 tháng 2, 2014

ÔN TẬP TỐT NGHIỆP MÔN TRIẾT HỌC MÁC-LÊNIN VÀ TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH


Nội dung ôn tập Triết học Mác-Lênin
1. Triết học, vấn đề cơ bản của Triết học.

2. Vật chất, ý thức, mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức.
3. Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến, nguyên lý về sự phát triển.
4. Quy luật chuyển hóa từ những sự thay đổi về lượng thành những sự thay đổi về chất và ngược lại. Quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập.
5. Nhận thức, thực tiễn và vai trò của thực tiễn đối với nhận thức.
6. Biện chứng của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Biện chứng của cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng.
7. Giai cấp.
Nội dung ôn tập Tư tưởng Hồ Chí Minh
1. Nguồn gốc, quá trình hình thành và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh.
2. Định nghĩa tư tưởng Hồ Chí Minh
3. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc.
4. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức.
Tài liệu tham khảo:
- Giáo trình Triết học Mác-Lênin (dùng trong các trường đại học, cao đẳng). Nhà xuất bản chính trị quốc gia, Hà Nội 2007
- Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh (dùng trong các trường đại học, cao đẳng). Nhà xuất bản chính trị quốc gia, Hà Nội 2007
- Ngoài ra sinh viên có thể tham khảo những tài liệu khác liên quan đến chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Kế hoạch ôn tập tập trung tại trường: sinh viên theo dõi trên Web site của trường, phòng đào tạo, khoa giáo dục đại cương

                                         TP.HCM, ngày 12 tháng 04 năm 2010
                                       TRƯỞNG BỘ MÔN



                                      PHẠM ĐÌNH HUẤN

ÔN TẬP TỐT NGHIỆP MÔN TRIẾT HỌC MÁC-LÊNIN VÀ TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

Thứ Sáu, 21 tháng 2, 2014

Tư tưởng Hồ Chí Minh về rèn luyện nhân cách Đảng viên Cộng sản


Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn luôn quan tâm đến việc giáo dục, rèn luyện phẩm chất đội ngũ đảng viên. Ngay từ năm 1925, bài giảng đầu tiên của Người cho những cán bộ cách mạng trẻ tuổi của Việt Nam là vấn đề “tư cách một người cách mệnh”.


Nghiên cứu những bài nói và viết của Người, chúng ta đều thấy mối quan tâm hàng đầu của Người là xây dựng một đội ngũ cán bộ đảng viên của Đảng thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư. Sự giác ngộ lý tưởng cộng sản, lòng trung thành với sự nghiệp cách mạng của Đảng, của giai cấp công nhân, suốt đời hy sinh phấn đấu vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản là phẩm chất hàng đầu mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đặt ra cho mỗi đảng viên cộng sản.

Người căn dặn mỗi đảng viên "không một phút nào được quên lý tưởng cao cả của mình là phấn đấu cho Tổ quốc hoàn toàn độc lập cho chủ nghĩa xã hội hoàn toàn thắng lợi trên đất nước ta và trên toàn thế giới"; phải biết đặt lợi ích của giai cấp, của dân tộc lên trên lợi ích của cá nhân, luôn vững vàng trước mọi khó khăn, vô luận trong hoàn cảnh nào cũng phải đặt lợi ích của Đảng lên trên hết; nếu khi "lợi ích chung của Đảng mâu thuẫn với lợi ích riêng của cá nhân thì phải quyết hy sinh lợi ích của cá nhân cho lợi ích của Đảng". Người chỉ rõ: suốt đời phục vụ Đảng, phục vụ nhân dân "là phẩm chất cao quý của người cách mạng. Đó là đạo đức cách mạng. Đó là tính Đảng, tính giai cấp, nó bảo đảm cho sự thắng lợi của đảng, của giai cấp, của nhân dân". Người đánh giá rất cao những đảng viên luôn luôn trung thành với sự nghiệp cách mạng của giai cấp và của dân tộc, suốt đời hy sinh phấn đấu vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản, đồng thời phê phán nghiêm khắc những kẻ lợi dụng địa vị để mưu cầu lợi ích cá nhân làm tổn hại đến lợi ích của giai cấp công nhân và nhân dân lạo động.

Chủ tịch Hồ chí Mình đòi hỏi mỗi đảng viên cộng sản cùng với phẩm chất cách mạng cao quý còn phải có năng lực, vì có năng lực mới hoàn thành tốt được nhiệm vụ của Đảng giao cho. Người dạy rằng, "Đảng yêu cầu cán bộ và đảng viên chẳng những thạo về chính trị, mà còn phải giỏi về chuyên môn, không thể lãnh đạo chung chung”. Muốn vừa thạo về chính trị, vừa giỏi về chuyên môn, mỗi đảng viên phải ra sức "học tập chủ nghĩa Mác - Lênin và đường lối, chính sách của Đảng, học tập văn hoá, kỹ thuật và nghiệp vụ; không ngừng nâng cao trình độ chính trị, tư tưởng và năng lực công tác của mình”. Bởi vì, có học tập lý luận Mác - Lênin mới củng cố được đạo đức cách mạng, giữ vững lập trường, nâng cao hiểu biết và trình độ chính trị, mới làm tốt được công tác Đảng giao cho mình; “có nắm vững đường lối cách mạng mới hiểu rõ mình phải làm gì và đi theo phương hướng nào để thực hiện mục đích của Đảng trong giai đoạn cách mạng hiện nay”. Người cũng chỉ rõ rằng, muốn học tập có kết quả tốt, phải có thái độ đúng và phương pháp đúng, lý luận phải liên hệ với thực tế, phải “biến những điều đã học thành hành động cách mạng thực tế. Học phải đi đôi với hành, chứ không phải học để nói suông”.

Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, một yêu cầu quan trọng về phẩm chất đảng viên là liên hệ mật thiết với quần chúng, phát huy quyền làm chủ tập thể và sức mạnh sáng tạo to lớn của quần chúng. Bởi lẽ, Đảng là đội tiên phong của quần chúng, nhưng Đảng chỉ có sức mạnh nếu giữ vững được mối liên hệ chặt chẽ với quần chúng. Muốn làm cho quần chúng phấn khởi, tin tưởng, người đảng viên "phải nâng cao tinh thần phụ trách trước Đảng và trước quần chúng, hết lòng hết sức phục vụ nhân dân. Phải yêu kính nhân dân. Phải thật sự tôn trọng quyền làm chủ của nhân dân. Tuyệt đối không được lên mặt “quan cách mạng” ra lệnh, ra oai. Phải nắm vững quan điểm giai cấp, đi đúng đường lối quần chúng, thành tâm học hỏi quần chúng, kiên quyết dựa vào quần chúng, giáo dục và phát động quần chúng tiến hành mọi chủ trương, chính sách của Đảng và của Nhà nước. Phải thật thà, ngay thẳng, không được giấu dốt, giấu khuyết điểm, sai lầm. Phải khiêm tốn, gần gũi quần chúng, không được kiêu ngạo...Phải luôn chăm lo đến đời sống của quần chúng. Phải “chí công, vô tư” và có tinh thần “lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ”. “Người nghiêm khắc phê phán những đảng viên “xa rời quần chúng, không muốn học hỏi quần chúng...ngại làm việc tổ chức, tuyên truyền và giáo dục quần chúng...mắc bệnh quan liêu, mệnh lệnh. Kết quả là quần chúng không tin, không phục, không yêu...” và họ không làm nên trò trống gì.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhân cách đảng viên cộng sản luôn nhấn mạnh vấn đề xây dựng ý thức tổ chức và kỷ luật, phục tùng nghiêm chỉnh kỷ luật của Đảng, giữ gìn sự đoàn kết thống nhất trong Đảng. Bởi lẽ, sức mạnh vô địch của Đảng là ở tinh thần kỷ luật tự giác, ý thức tổ chức nghiêm. Người chỉ rõ: “Đảng ta tuy nhiều người, nhưng khi tiến đánh thì chỉ như một người. Đó là nhờ có kỷ luật. Kỷ luật của ta là kỷ luật sắt, nghĩa là nghiêm túc và tự giác”. Người đòi hỏi mỗi đảng viên cần phải làm kiểu mẫu về phục tùng kỷ luật, chẳng những kỷ luật của Đảng mà cả kỷ luật của các đoàn thể nhân dân và của cơ quan chính quyền. Trong giáo dục ý thức tổ chức kỷ luật, người yêu cầu mọi đảng viên phải ra sức góp phần xây dựng và giữ vững sự đoàn kết nhất trí trong Đảng. Bởi lẽ, đoàn kết là sức mạnh, là then chốt của thành công. "Nhờ đoàn kết chặt chẽ, một lòng một dạ phục vụ giai cấp, phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc, cho nên từ ngày thành lập đến nay, Đảng ta đã đoàn kết, tổ chức và lãnh đạo nhân dân ta hăng hái đấu tranh tiến từ thắng lợi này đến thắng lợi khác". Do đó, tất cả cán bộ, đảng viên, dù ở cương vị khác nhau, làm công tác khác nhau, cũng đều phải đoàn kết nhất trí để làm tròn nhiệm vụ, "giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình"

Chủ tịch Hồ Chí Minh còn chỉ rõ những biện pháp thiết thực để mỗi đảng viên cộng sản phấn đấu, rèn luyện, tu dưỡng nhân cách của mình. Trước hết, mỗi đảng viên phải ra sức tu dưỡng, rèn luyện để nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân. Nếu để cho chủ nghĩa cá nhân ám ảnh, chi phối, người đảng viên sẽ mất dần tư cách, đi tới tự tước bỏ danh hiệu cao quý của mình. Vì vậy, muốn giữ được tư cách, đảng viên nhất thiết "phải ra sức học tập, tu dưỡng, tự cải tạo để tiến bộ mãi. Nếu không cố gắng để tiến bộ, thì tức là thoái bộ, là lạc hậu...sẽ bị xã hội tiến bộ sa thải".

Việc giữ gìn bản chất, tư cách đảng viên cộng sản cần gắn với xây dựng, củng cố các tổ chức của Đảng, nhất là chi bộ, vì chi bộ “là nền móng của Đảng, chi bộ tốt thì mọi việc sẽ tốt”. Thực tế đã chứng minh rất rõ: ở đâu chi bộ mạnh, cấp ủy mạnh thì đảng viên mạnh, ở đâu chi ủy, chi bộ rệu rã thì ở đó cán bộ, đảng viên tê liệt sức chiến đấu, dễ trở thành hư hỏng, thoái hoá. Cho nên, trong xây dựng tổ chức đảng, xây dựng chi bộ, các cấp ủy đảng phải thực hiện dân chủ nội bộ, quan tâm đến đời sống của cán bộ, đảng viên, kịp thời giúp họ giải quyết những khó khăn, vướng mắc trong cuộc sống và công tác. Song, phải nghiêm khắc đối với những cán bộ, đảng viên phạm sai lầm, khuyết điểm; tẩy bỏ những phần tử hủ hoá nhằm giữ gìn nghiêm kỷ luật từ trên xuống dưới.

Cùng với việc giữ nghiêm kỷ luật, phải "mở rộng phong trào phê bình và tự phê bình ở trong Đảng, ở các cơ quan, các đoàn thể, trên các báo chí cho đến nhân dân. Phê bình và tự phê bình phải thường xuyên, thiết thực, dân chủ, từ trên xuống và từ dưới lên". Người còn vạch rõ: “Chúng ta không sợ sai lầm, chỉ sợ phạm sai lầm mà không quyết tâm sửa chữa. Muốn sửa chữa cho tốt thì phải sẵn sàng nghe quần chúng phê bình và thật thà tự phê bình". Đồng thời, Người yêu cầu phải tăng cường công tác kiểm tra trong Đảng nhằm "thúc đẩy và giáo dục đảng viên làm trọn nhiệm vụ...,làm gương mẫu cho nhân dân" và xây dựng Đảng vững mạnh, nâng cao sức chiến đấu của Đảng.

Trong giai đoạn hiện nay, khi cả nước đứng trước những vận hội mới và thách thức mới, tiếp tục sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, hơn bao giờ hết chúng ta phải giương cao ngọn cờ lãnh đạo của Đảng, xây dựng các tổ chức chi bộ vững mạnh, rèn luyện tư cách đảng viên với phẩm chất, năng lực ngang tầm nhiệm vụ. Việc nghiên cứu, quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh trong công tác xây dựng Đảng nói chung, trong rèn luyện phẩm chất, tư cách đảng viên cộng sản nói riêng có ý nghĩa vô cùng quan trọng nhằm củng cố tổ chức đảng, xây dựng Đảng vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức, thực sự xứng đáng vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân.

Đại tá, PGS.TS. Đinh Hùng Tuấn

Tư tưởng Hồ Chí Minh về rèn luyện nhân cách Đảng viên Cộng sản

Thứ Năm, 20 tháng 2, 2014

Từ tư tưởng Hồ Chí Minh đối với công tác giáo dục, nghĩ về nền giáo dục hiện nay


1. Trong tập sách "Hồ Chí Minh bàn về công tác giáo dục" do Nhà xuất bản Sự thật Hà Nội ấn hành năm 1972 đã tập hợp nhiều bài viết của Người bàn về công tác giáo dục.
Sợi chỉ đỏ xuyên suốt tập sách này là tư tưởng của Hồ Chí Minh đối với mục tiêu, nội dung, phương pháp giáo dục. Đây chính là cẩm nang, là cơ sở khoa học để Đảng ta vận dụng, lãnh đạo sự nghiệp giáo dục nước ta trong suốt một phần ba thế kỷ qua.

Về mục tiêu giáo dục, Người căn dặn: Trách nhiệm của người thầy "không phải là gõ đầu trẻ để kiếm cơm" mà phải chăm lo, dạy dỗ, đào tạo các em thành người công dân tốt, người lao động tốt, người cán bộ tốt, người chiến sĩ tốt, trung với nước, hiếu với dân, có lòng yêu nước nồng nàn, có đạo đức trong sáng, cần-kiệm-liêm-chính-chí-công-vô-tư, có tri thức và sức khỏe để phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân, làm cho dân giàu, nước mạnh.



Về nội dung giáo dục, Người chỉ rõ: phải chú trọng giáo dục đạo đức cách mạng, giác ngộ xã hội chủ nghĩa, kỹ thuật, lao động sản xuất. Người nhấn mạnh: "Tăng cường hơn nữa việc giáo dục lao động trong nhà trường là một khâu chủ yếu trong toàn bộ sự nghiệp giáo dục xã hội chủ nghĩa, nhằm trang bị cho thế hệ trẻ có những kiến thức khoa học, lại có những kiến thức cơ bản về sản xuất công nghiệp-nông nghiệp, những thói quen lao động, sẵn sàng bước vào xây dựng xã hội chủ nghĩa". Theo Người, nội dung giáo dục phải chứa đựng tính dân tộc, tính khoa họcvà tính nhân dân; phải làm cho người học hiểu được những truyền thống quý báu của dân tộc như tinh thần yêu nước nồng nàn, đoàn kết, tương thân tương ái, anh hùng trong chống giặc ngoại xâm, cần cù trong lao động sản xuất.

Về phương pháp giáo dục, Người chỉ giáo: cách học phải nhẹ nhàng; không gò ép học sinh vào khuôn khổ người lớn, phải đặc biệt chú trọng đến sức khỏe của các cháu, chú trọng bồi dưỡng phương pháp tự phát huy nội lực, tư duy biện chứng Mác - Lê nin, óc tư duy lý luận, tư duy kỹ thuật, tư duy kinh tế, óc phê phán và sáng tạo cho người học.

2. Vận dụng tư tưởng cách mạng của Hồ Chí Minh về công tác giáo dục, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, ngành Giáo dục - đào tạo đã đào tạo được một đội ngũ trí thức có đức, có tài, phục vụ đắc lực cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước. Tuy nhiên bên cạnh những thành tựu ấy, giáo dục lại có nhiều mặt làm cho xã hội quan ngại. Tình trạng giáo dục thiên về "dạy chữ" lơi lỏng về "dạy người" vẫn còn phổ biến. Bàn về công tác đào tạo, gần đây, tại diễn đàn Hội nghị giáo dục, Thủ tướng Phan Văn Khải nhận xét: chất lượng đào tạo của ta còn yếu, đào tạo ít gắn với sản xuất và đời sống, với nghiên cứu khoa học. "Giáo dục lao động trong nhà trường là một khâu chủ yếu trong toàn bộ sự nghiệp giáo dục xã hội chủ nghĩa…" như lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh giờ đây đã trở thành xa vời đối với nhiều trường phổ thông, thay vào đó là "dạy chay", "học chay", dạy thêm, học thêm tràn lan, làm cho học sinh không còn thời gian để nghỉ ngơi, giải trí. Nhu cầu học thêm bị lợi dụng bởi một bộ phận giáo viên với động cơ không trong sáng. Nhiều giáo viên dạy không sâu sát chương trình, thậm chí theo như lời của một cán bộ lâu năm trong ngành Giáo dục thì cách dạy quá hời hợt, cứ y như "chuồn chuồn đạp nước" nhằm ép học sinh đi học thêm, bắt học sinh học thêm để thu tiền thông qua nhu cầu học thêm giả tạo, dưới hình thức "tự nguyện" (?!).

Một thực tế làm nhiều người hết sức lo lắng, đó là phải chăng chất lượng giáo dục hiện nay đang xuống cấp? Liên tiếp trong thời gian qua, các báo, đài đã tốn khá nhiều giấy mực lên tiếng về thực trạng đáng báo động này. Và mới đây tại diễn đàn của kỳ họp thứ 4, Quốc hội khóa XI, nhiều vị đại biểu Quốc hội đã bày tỏ bức xúc trước yếu kém này của ngành Giáo dục. Còn nhớ, trong kỳ thi tuyển sinh đại học, cao đẳng năm 2003, có tới 5.700 thí sinh có cả ba môn thi bị điểm không; 86% số thí sinh có ba môn dưới 15 điểm. Kết quả này được công bố đã gây "sốc" cho các vị quản lý ngành Giáo dục. Người ta đã hoài nghi: phải chăng có sự sai lệch trong quá trình chấm thi của các trường. Và thanh tra Bộ Giáo dục - Đào tạo đã chọn 1.297 bài bị điểm không để chấm lại, kết quả chỉ có 2 bài được nâng điểm, còn 1.295 bài vẫn giữ nguyên điểm không như kết quả chấm ban đầu. Theo đoàn thanh tra, các bài bị điểm không là do thí sinh hổng kiến thức cơ bản, và họ đã kết luận: trình độ của thí sinh yếu kém thật sự.

Vậy đâu là nguyên nhân dẫn đến tình trạng yếu kém này? Điều dễ nhận thấy là phương pháp giáo dục của ta hiện đang còn nhiều bất cập. Báo cáo của Chính phủ tại kỳ họp thứ 4, Quốc hội khóa XI đã chỉ rõ: Phương pháp giáo dục trong các trường học nặng về truyền thụ, áp đặt kiến thức một chiều, thầy giảng trò chép, cách dạy và học nặng về học thuộc lòng, tạo cho học sinh tiếp thu một cách máy móc, chưa khuyến khích tính năng động sáng tạo của người học, chưa coi trọng bồi dưỡng cho học sinh năng lực thực hành… Bên cạnh đó, một yếu tố cũng ảnh hưởng rất lớn đối với chất lượng giáo dục đó là "bệnh thành tích" - một "căn bệnh" đã tồn tại từ nhiều năm nay. Chúng ta đều biết, trong các trường phổ thông có cả một hệ thống quản lý từ hiệu trưởng, hiệu phó, các tổ trưởng bộ môn, thế nhưng giáo viên có ngàn lẻ một cách phù phép để kết quả giảng dạy "đạt cao". Hơn thế nữa chính cán bộ quản lý nhà trường cũng cần có một "tỷ lệ đẹp" để báo cáo với cấp trên. Chính bệnh thành tích này đã đôn dần học sinh yếu lên lớp. Dư luận đặt câu hỏi: tại sao năm học 2002-2003 tỷ lệ học sinh tốt nghiệp THPT cả nước rất cao 92,6% (có tỉnh đạt 99,5%) nhưng trong kỳ thi tuyển sinh đại học, cao đẳng có quá nhiều thí sinh bị cả 3 môn không điểm như vậy.

Chúng ta phải thừa nhận rằng những bất cập về chất lượng và hiệu quả giáo dục đang là một hiện thực. Cách dạy nhồi nhét, dạy tủ, dạy theo lối cũ truyền thống vẫn đang là sức ỳ lớn, một lực cản cho yêu cầu nâng cao chất lượng giáo dục. Những vấn đề cộm cán như bệnh thành tích, vấn nạn dạy thêm học thêm, nạn sính bằng cấp… đã gây ra nhiều vấn đề phức tạp cho xã hội, làm ảnh hưởng đến uy tín của ngành Giáo dục và thanh danh của người thầy. Điều đó đòi hỏi ngành Giáo dục cần mạnh dạn có một "cuộc phẫu thuật" để loại bỏ những "căn bệnh" này, nếu không chúng ta phải đối mặt với những biến cố, hậu quả lớn hơn nhiều. Hy vọng, trong thời gian tới, ngành Giáo dục - đào tạo sẽ sớm có biện pháp khắc phục những yếu kém, bất cập hiện nay, bảo đảm thực hiện nghiêm túc tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục, để giáo dục thật sự là "quốc sách hàng đầu", phục vụ đắc lực công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Hồ Xuân Ánh
(Báo Bình Định)

Từ tư tưởng Hồ Chí Minh đối với công tác giáo dục, nghĩ về nền giáo dục hiện nay

Tư tưởng Hồ Chí Minh về đánh giá và sử dụng cán bộ


Xây dựng đội ngũ cán bộ là một nội dung lớn trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Suốt cuộc đời, Người không ngừng chăm lo bồi dưỡng, huấn luyện đội ngũ cán bộ cho Đảng đủ Đức và Tài để phục vụ sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng CNXH.


Theo Người, ''cán bộ là gốc của công việc'', do đó Người yêu cầu ''phải biết rõ cán bộ” và ''hiểu biết cán bộ'' để có kế hoạch bồi dưỡng, huấn luyện, sử dụng phù hợp. Đánh giá đúng cán bộ tức là xác định chính xác ai tốt ai xấu, ai mạnh chỗ nào, yếu chỗ nào, khả năng hoàn thành công việc đến đâu, quan hệ với quần chúng ra sao để từ đó ''tìm thấy những nhân tài mới... những người hủ hoá cũng lòi ra''.

Cán bộ là con người, vì vậy người cán bộ luôn chịu sự tác động của hoàn cảnh lịch sử, xã hội nên khi đánh giá cán bộ, Hồ Chí Minh luôn đặt cán bộ trong mối quan hệ toàn diện, nhiều chiều, phát triển và không định kiến ''một người cán bộ khi trước có sai lầm, không phải sẽ sai lầm mãi. Cũng có cán bộ đến nay chưa bị sai lầm nhưng chắc gì sau này không bị sai lầm? Quá khứ, hiện tại và tương lai của mọi người không phải luôn luôn giống nhau... lúc cách mạng lên cao thì hăng hái, lúc cách mạng gặp khó khăn thì đâm ra hoang mang'' hoặc ''nhận xét cán bộ không nên chỉ xét ngoài mặt, chỉ xét một lúc, một việc mà phải xét kỹ cả toàn bộ công việc của cán bộ''. Theo Người, phải lấy tiêu chuẩn để đánh giá ''cán bộ nào, phong trào ấy''. Một người cán bộ tốt phải là người có đủ đức và tài, Hồ Chí Minh chỉ rõ: Đức là đạo đức cách mạng, là cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; tài là người có khả năng hành động, làm việc mang lại hiệu quả cao. Đức và tài phải thống nhất với nhau trong đó ''Đức là gốc''.

Một điều quan trọng nữa là người đánh giá cán bộ. Để đánh giá đúng, đòi hỏi người đánh giá phải công tâm, vô tư, khách quan. Do đó, bản thân người đánh giá cũng phải ''tự sửa mình'' để "nếu không biết sự phải trái của mình thì không thể nhận rõ cán bộ tốt hay xấu''. Đặc biệt đánh giá cán bộ phải dựa vào dân, lấy ý kiến của dân, đem ra tập thể bàn bạc và đi đến thống nhất.

Đánh giá đúng cán bộ để Đảng có kế hoạch huấn luyện cán bộ vì ''cán bộ là tiền vốn của Đảng'', ''công việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém'', “Đạo đức cách mạng không phải từ trên trời sa xuống. Nó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hàng ngày mà phát triển và củng cố. Cũng như ngọc, càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong”.

Sử dụng cán bộ thế nào? Theo Hồ Chí Minh, trước hết phải xác định đúng yêu cầu của công việc, ''công việc yêu cầu cán bộ'' và khi bố trí, sử dụng phải tránh sự thiên vị cá nhân. Dùng người là cả một khoa học và nghệ thuật, do đó, nếu bố trí đúng sẽ phát huy mặt mạnh của cán bộ, thúc đẩy được phong trào và còn hạn chế được mặt yếu, mặt dở của họ. Người chỉ ra những khuyết điểm khi sử dụng cán bộ, người quản lý hay mắc phải đó là ''ba ham''. ''Ham dùng người bà con, anh em quen biết, bầu bạn, cho họ là chắc chắn hơn người ngoài. Ham dùng những kẻ nịnh hót mình mà chán ghét những người chính trực. Ham dùng những người tính tình hợp với mình, mà tránh những người tính tình không hợp với mình''.

Người căn dặn 5 vấn đề mà người cán bộ lãnh đạo phải thực hiện khi dùng người:

''Mình phải độ lượng, vị tha thì mới có thể đối với cán bộ một cách chí công -vô tư, không có thành kiến, khiến cán bộ không bị bỏ rơi''; ''Phải có tinh thần rộng rãi, mới có thể gần gũi những người mình không ưa”; ''Phải có tính chịu khó dạy bảo mới có thể nâng đỡ những đồng chí còn kém, giúp cho họ tiến bộ''; ''Phải sáng suốt mới khỏi bị bọn vu vơ bao vây, mà cách xa cán bộ tốt''; ''Phải có thái độ vui vẻ, thân mật, các đồng chí mới vui lòng gần gũi mình''.

Đồng thời, Hồ Chí Minh nhắc nhở phải mạnh dạn cất nhắc cán bộ và thường xuyên luân chuyển cán bộ, chống bệnh ích kỷ, địa phương, kéo bè, chia rẽ phái này phái kia ''phải kết thành một khối không phân biệt, không kèn cựa và giúp đỡ nhau thì công việc mới chạy”. Trong quá trình sử dụng cán bộ phải thường xuyên đánh giá để kịp thời uốn nắn, sửa chữa khuyết điểm cho cán bộ và bố trí lại cán bộ khi cần thiết.

Thực tế, trong cuộc đời làm cách mạng, Hồ Chí Minh đã để lại cho Đảng ta di sản quý báu đó là khoa học và nghệ thuật về đánh giá và sử dụng cán bộ.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng đội ngũ cán bộ có nội hàm hết sức phong phú nên cần được nghiên cứu ở nhiều phương diện. Song, cần khẳng định: Đánh giá cán bộ, sử dụng cán bộ là cả một vấn đề khoa học và nghệ thuật, và phải luôn ghi nhớ lời Bác dạy: “Công việc thành hay bại đều từ cán bộ mà ra''.

Đình Thanh

Tư tưởng Hồ Chí Minh về đánh giá và sử dụng cán bộ

Tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân


Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất coi trọng công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân. Ngay từ năm 1941, dưới sự lãnh đạo của Người, chương trình Việt Minh ghi: "Cần khuyến khích nền thể dục quốc dân, làm cho giống nòi ngày càng thêm mạnh".


Chương trình hành động này còn chỉ rõ: "Lập thêm nhà thương, nhà đỡ đẻ, nhà dưỡng lão". Ngay sau Cách mạng Tháng Tám thành công, ngày 27-3-1946, Người ký Sắc lệnh số 38/SL thiết lập Nha Thanh niên và Thể thao Trung ương, đồng thời Người viết bài: "Sức khỏe và thể dục". Từ năm 1947-1967, Người có 25 bài và thư gửi ngành y tế và thương binh, xã hội, chỉ ra những quan điểm cơ bản về điều trị thương, bệnh binh, kết hợp quân dân y, kết hợp đông y và tây y và công tác khác của ngành y tế.

1- Quan niệm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về sức khỏe và mối quan hệ giữa y lý, y thuật và y đạo trong tư tưởng của Người.

Người quan niệm sức khỏe là gồm có sự thoải mái cả về thể xác lẫn tâm hồn. Ðiều đáng chú ý, Người phát biểu quan niệm này từ năm 1946 và tới năm 1978, Tổ chức Y tế thế giới mới đưa ra định nghĩa về sức khỏe. Người định nghĩa: "Khí huyết lưu thông, tinh thần thoải mái, thế là sức khỏe". Sinh ra tại một vùng "địa linh nhân kiệt" như Nghệ An, nơi cách không xa quê ngoại của Ðại danh y Hải Thượng Lãn Ông (Hương Sơn, Hà Tĩnh), lại lớn lên trong một gia đình nhà Nho có cha đã từng là thầy thuốc đông y làm nghề cắt thuốc trị bệnh cứu người, Chủ tịch Hồ Chí Minh am hiểu sâu sắc về y lý, y thuật và y đạo của Y học phương Ðông. Vì vậy, khi diễn giải về sức khỏe, Người dùng những khái niệm của y học phương Ðông. Theo Y học phương Ðông, huyết là cái xe vận chuyển khí, khí động thì sinh ra tinh, tinh động thì sinh ra thần. Nếu khí không động thì tinh thần tan rã, và như vậy là sinh ra bệnh tật, ốm đau, chết chóc.

Như vậy, chúng ta hiểu định nghĩa về sức khỏe của Chủ tịch Hồ Chí Minh dựa trên y lý của Y học phương Ðông. Ngày nay Y học hiện đại cũng định nghĩa: "Sức khỏe là một tình trạng thoải mái hoàn toàn về thể chất, tinh thần và xã hội, chứ không phải chỉ là một tình trạng không có bệnh tật hay tàn tật". Khởi đầu là sự tiếp thu y lý của Y học phương Ðông, nhưng khi đã tiếp cận với lý luận của triết học Mác về con người, con người vừa là thực thể tự nhiên vừa là thực thể xã hội, thì trong tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh mặt thể chất và mặt tinh thần lại càng được hòa quyện với nhau trong khái niệm sức khỏe và công tác chăm sóc sức khỏe. Một điều quan trọng khi phân tích và học tập tư tưởng Hồ Chí Minh về sức khỏe và công tác chăm sóc sức khỏe mà chúng ta cần lĩnh hội, đó là tính khoa học và tính thống nhất giữa y lý, y thuật và y đạo trong tư tưởng của Người. Chính dựa trên khái niệm đúng đắn về sức khỏe, Chủ tịch Hồ Chí Minh dạy chúng ta về y thuật và đặc biệt Người dạy nhiều về y đạo. Những lời dạy về y thuật và y đạo không phải là những ý ngẫu nhiên hoặc lặp lại một cách đơn thuần những ý hoặc lời của các bậc danh nhân hoặc danh y tiền bối. Chính sự hiểu đúng đắn về sức khỏe, hay nói cách khác, xuất phát từ cơ sở y lý đúng đắn mà Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ cho chúng ta những vấn đề y thuật và y đạo. Ðó là tính khoa học và tính thống nhất sâu sắc trong tư tưởng của Người về sức khỏe. Cũng chính từ cơ sở nhận thức đúng đắn về sức khỏe mà Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhấn mạnh đến y đạo, tức tính cao cả của nghề thầy thuốc và trọng trách của người thầy thuốc.

2- Tư tưởng Hồ Chí Minh về vị trí của công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân.

Trên cơ sở hiểu một cách đúng đắn về sức khỏe, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định vai trò của sức khỏe và vị trí của công tác chăm sóc sức khỏe trong kháng chiến và kiến quốc: Mỗi một người dân yếu ớt, tức là cả nước yếu ớt, mỗi một người dân mạnh khỏe tức là cả nước mạnh khỏe". "Dân cường thì quốc thịnh". "Sức khỏe của cán bộ và nhân dân được bảo đảm thì tinh thần càng hăng hái. Tinh thần và sức khỏe đầy đủ thì kháng chiến càng nhiều thắng lợi, kiến quốc càng mau thành công". Với Chủ tịch Hồ Chí Minh, con người là vị trí trung tâm của mọi hoạt động và quyền được sống là quyền cao nhất của con người. Khi được sống thì sức khỏe là yếu tố quan trọng nhất, nếu không có sức khỏe thì chẳng làm được gì. Chính vì vậy mà Người dạy chúng ta: "Giữ gìn dân chủ, xây dựng nước nhà, gây đời sống mới, việc gì cũng cần có sức khỏe mới làm thành công". Ðó chính là tư tưởng nhân văn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về vai trò của sức khỏe và vị trí của công tác chăm sóc sức khỏe. Có một điều mà chúng ta cần nhận thức sâu sắc, đó là ngay khi cách mạng còn nhiều khó khăn, gian khổ, đời sống của nhân dân còn gian nan, nhưng Chủ tịch Hồ Chí Minh đã rất coi trọng vị trí của công tác chăm sóc và bảo vệ sức khỏe. Người cho rằng: "Sạch sẽ thì ít ốm đau. Sức khỏe thì làm được việc, làm được việc thì có ăn". Như vậy, không phải chỉ khi nào "có ăn" mới lo giữ sức khỏe. Người còn dạy: "Mình dù nghèo, ai cấm mình ăn ở sạch sẽ". Ngày nay, khi liên hệ với nhận thức của một số cán bộ lãnh đạo các cấp, đặc biệt ở địa phương, chúng ta có thể thấy tình trạng coi nhẹ công tác chăm sóc sức khỏe của nhân dân trong địa bàn mình quản lý. Họ thường viện lý cần phải phát triển kinh tế trước, lo cái ăn trước và chăm lo văn hóa xã hội sau. Ðành rằng kinh tế có phát triển thì mới có tiền để mua trang thiết bị dùng để nâng cao chất lượng phòng bệnh và chữa bệnh. Nhưng không vì thế mà lãng quên hoặc coi nhẹ mọi hoạt động của công việc chăm sóc sức khỏe ngay khi bắt đầu xây dựng kinh tế. Hơn thế, câu nói trên của Chủ tịch Hồ Chí Minh còn cho thấy: Chăm sóc sức khỏe cũng góp phần tạo ra của cải xã hội chứ không phải là một công việc chỉ tiêu tốn của cải xã hội.

3- Tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa cá nhân và cộng đồng trong vấn đề chăm sóc sức khỏe.

Theo quan niệm của Chủ tịch Hồ Chí Minh thì sức khỏe của cá nhân và sức khỏe của cộng đồng có quan hệ mật thiết với nhau. Mối quan hệ giữa cá nhân và cộng đồng là một nét đặc sắc trong tư tưởng của Người về chăm sóc sức khỏe. Cơ sở sâu xa của tư tưởng này của Người cũng lại chính là sự tiếp cận của Người với tư tưởng triết học của Mác về con người. Con người có nhu cầu chăm sóc sức khỏe và biết cân bằng mối quan hệ cung cầu trong lĩnh vực này. Câu nói của Người: "Mỗi một người dân yếu ớt, tức là cả nước yếu ớt, mỗi một người dân mạnh khỏe tức là cả nước mạnh khỏe" đã thể hiện rất rõ mối quan hệ giữa cá nhân và cộng đồng trong chăm sóc sức khỏe. Với Chủ tịch Hồ Chí Minh, sức khỏe không chỉ là tài sản cá nhân mà còn là tài sản chung; tạo nguồn sức khỏe không chỉ là trách nhiệm cá nhân mà còn là trách nhiệm của cộng đồng. Bằng cách gắn nhiệm vụ tự chăm sóc sức khỏe với khái niệm yêu nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề cao vị trí của công tác chăm sóc sức khỏe. Theo Người, tự chăm sóc sức khỏe không chỉ vì mục đích cá nhân mà còn có mục đích vì đất nước. Cũng bằng cách đặt vấn đề như vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cụ thể hóa khái niệm yêu nước: Yêu nước không phải là một khái niệm chung chung, mà nó được thể hiện bằng các hành động cụ thể trong cuộc sống hằng ngày. Cách đặt vấn đề của Chủ tịch Hồ Chí Minh như một lời hiệu triệu đi vào lòng người, làm cho toàn dân nô nức thực hiện. Ngày nay, chúng ta không chỉ học tập tư tưởng Hồ Chí Minh mà còn phải học tập cả phương pháp Hồ Chí Minh. Ngoài việc tự chăm sóc sức khỏe, mỗi cá nhân có nghĩa vụ tham gia các hoạt động chăm sóc sức khỏe. Người dạy: "Sạch sẽ tức là một phần đời sống mới. Sạch sẽ thì ít đau ốm, sức khỏe thì làm được việc, làm được việc thì có ăn. Xem đó thì biết rằng ai cũng nên làm đời sống mới".

Ngoài vai trò cá nhân, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh đến vai trò của cộng đồng. Người hết sức coi trọng việc phát động phong trào quần chúng thi đua trong chăm sóc và bảo vệ sức khỏe. Những ngày đầu sau Cách mạng Tháng Tám thành công, Người gọi đó là phong trào xây dựng "Ðời sống mới". Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh phong trào này phải đến với mỗi người và mỗi người phải tham gia. Tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về sức khỏe, vị trí của công tác chăm sóc sức khỏe và mối quan hệ giữa cá nhân và cộng đồng trong chăm sóc sức khỏe nhân dân mãi mãi là cơ sở lý luận cho mọi hành động đúng đắn của chúng ta trong sự nghiệp bảo vệ chăm sóc sức khỏe nhân dân.

GS, TSKH Phạm Mạnh Hùng
Phó Trưởng Ban Khoa giáo T.Ư

Tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân