loi, bai, hat, lời bài hát

Thứ Ba, 2 tháng 12, 2014

Quan niệm của hồ chí minh về vai trò và bản chất của đảng cộng sản việt nam


1. Về sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam

- Theo Lênin Đảng cộng sản là sự kết hợp chủ nghĩa Mác với phong trào công nhân. Người lưu ý rằng:

+ Sự kết hợp đó tạo cơ sở vững chắc cho cả hai: “ Chủ nghĩa Mác cần phong trào công nhân với tư cách là lực lượng để thực hiện chủ nghĩa của mình và phong trào công nhân cần chủ nghĩa Mác để soi đường, dẫn lối đấu tranh.
+ Trong mỗi nước khác nhau, sự kết hợp đó là sản phẩm của lịch sử, được thực hiện bằng con đường đặc biệt, tùy theo điều kiện không gian và thời gian.
- Hồ Chí Minh tiếp thu luận điểm này đã khẳng định tính đúng đắn của nó. Khi đề cập đến sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam, bên cạnh hai yếu tố chủ nghĩa Mác và phong trào công nhân, Hồ Chí Minh còn kể đến yếu tố thứ ba, đó là phong trào yêu nước. Đảng Cộng sản Việt Nam là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác-Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước.
Đây chính là quy luật hình thành và phát triển Đảng Cộng sản Việt Nam, đồng thời là sự bổ sung sáng tạo vào kho tàng lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin.
Một mặt, Hồ Chí Minh làm rõ vai trò to lớn của chủ nghĩa Mác-Lênin đối với cách mạng Việt Nam; đối với quá trình hình thành Đảng Cộng sản Việt Nam và đối với việc đảm bảo vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân Việt Nam đối với cách mạng Việt Nam.
Nhưng, vì sao Hồ Chí Minh lại thêm yếu tố phong trào yêu nước?

1. Phong trào yêu nước có vị trí, vai trò cực kỳ to lớn trong quá trình phát triển của dân tộc Việt Nam. Phong trào yêu nước Việt Nam là phong trào rộng lớn nhất có trước phong trào công nhân từ nghìn năm lịch sử. Nó cuốn hút mọi tầng lớp nhân dân, toàn dân tộc đứng lên chống kẻ thù. Phong trào công nhân ngay từ khi mới ra đời đã kết hợp với phong trào yêu nước.  Khác với những người cộng sản phương Tây, Hồ Chí Minh và những người cộng sản Việt Nam đã đi từ chủ nghĩa yêu nước đến với chủ nghĩa Mác-Lênin, từ giác ngộ dân tộc đến giác ngộ giai cấp.

2. Phong trào công nhân kết hợp với phong trào yêu nước vì cả hai đều có mục tiêu chung.
3. Đầu thế kỷ XX, nông dân Việt Nam chiếm hơn 90% dân số. Họ là bạn đồng minh tự nhiên của giai cấp công nhân. Giai cấp công nhân và giai cấp nông dân hợp thành quân chủ lực của cách mạng. Họ có kẻ thù chung trước mắt là bọn đế quốc, thực dân.

4. Phong trào yêu nước của trí thức Việt Nam là nhân tố quan trọng thúc đẩy sự kết hợp các yếu tố cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Đầu thế kỷ XX, trí thức Việt Nam tuy số lượng không nhiều nhưng lại là những ngòi nổ cho các phong trào yêu nước bùng lên chống thực dân Pháp xâm lược và tay sai cũng như thúc đẩy sự canh tân và chấn hưng đất nước. Tri thức Việt Nam rất nhạy cảm với thời cuộc, do vậy, họ chủ động và có cơ hội đón nhận những “luồng gió mới về tư tưởng của tất cả các trào lưu trên thế giới dội vào Việt Nam.

 Quy luật hình thành đảng cộng sản Việt Nam trên cơ sở kết hợp vấn đề dân tộc với giai cấp, có ý nghĩa quan trọng đối với quá trình hình thành Đảng ở một nước thuộc địa. Đảng định hướng đúng đắn và thúc đẩy phong trào cách mạng. Hồ Chí Minh tìm cách truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin vào trong dân, vào phong trào yêu nước, phong trào công nhân. Bác viết “không phải mọi người yêu nước đều là cộng sản, việc tiếp nhận đường lối của Đảng cộng sản là cần thiết để xác định mục tiêu yêu nước đúng đắn. Mỗi người cộng sản trước hết phải là một người yêu nước tiêu biểu, phải truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin vào trong dân, lãnh đạo công nhân và quần chúng thực hiện thắng lợi đường lối của Đảng”.

Cách mạng Việt Nam đi từ tự phát đến tự giác, có tổ chức, có đường lối được giác ngộ chủ nghĩa Mác-Lênin giành được thắng lợi to lớn đó là nhờ có Đảng Cộng sản Việt Nam.

2. Vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam

Cách mạng là cuộc đấu tranh gian khổ. Kẻ địch rất mạnh. Muốn thắng lợi thì quần chúng phải tổ chức rất chặt chẽ, chí khí phải kiên quyết. Vì vậy, phải có Đảng để tổ chức và giáo dục nhân dân thành một đội quân thật mạnh, để đánh đổ kẻ địch,  giành chính quyền.
Vận dụng sáng tạo lý luận của chủ nghĩa Mác Lênin và kế thừa truyền thống dân tộc, Hồ Chí Minh khẳng định cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhưng quần chúng phải được giác ngộ, được tổ chức và được lãnh đạo theo một đường lối đúng đắn mới trở thành lực lượng to lớn của cách mạng – như con thuyền có người cầm lái vững vàng… thì thuyền mới vượt qua được gió to sóng cả để đi đến bến bờ. Bác nhấn mạnh “cách mạng trước hết phải có gì? Phải có Đảng Cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp ở mọi nơi. Đảng có vững cách mạng mới thành công, cũng như người cầm lái có vững thì con thuyền mới chạy.”Hồ Chí Minh cho rằng: “Muốn khỏi đi lạc phương hướng, quần chúng phải có Đảng lãnh đạo để nhận rõ tình hình, đường lối và định phương châm cho đúng…Cách mạng thắng lợi rồi, quần chúng vẫn cần có Đảng lãnh đạo”.

Đảng Cộng sản Việt Nam là chính đảng cách mạng mang bản chất của giai cấp công nhân Việt Nam, là đội tiền phong của giai cấp công nhân, có khả năng đoàn kết tập hợp các tầng lớp nhân dân khác làm cách mạng. Đảng là đội tiền phong dũng cảm và là đội tham mưu sáng suốt. Đảng Cộng sản Việt Nam tận tâm, tận lực phụng sự tổ quốc, phụng sự nhân dân, trung thành tuyệt đối với lợi ích của giai cấp, của nhân dân, của dân tộc, Đảng không có lợi ích nào khác ngoài lợi ích của nhân dân và của dân tộc. Mục tiêu phấn đấu của Đảng là độc lập cho dân tộc, tự do cho nhân dân, hạnh phúc cho mọi người.

Đảng cộng sản Việt Nam là người lãnh đạo duy nhất, là yếu tố quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam vì sự ra đời, tồn tại và phát triển của Đảng phù hợp với quy luật phát triển của xã hội và Đảng không có mục đích tự thân. Vai trò lãnh đạo của Đảng đối với cách mạng Việt Nam đã được thực tế lịch sử chứng minh.

Theo Hồ Chí Minh, Đảng là yếu tố quyết định thắng lợi là vì:

- Đảng được trang bị học thuyết Mác-Lênin , đây là học thuyết cách mạng và khoa học nhất thời đại, “đây là chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mạng nhất”.

- Đảng viên của Đảng là những người ưu tú nhất, tiên tiến nhất của dân tộc. “ Đảng là con nhà nòi” của dân tộc Việt Nam.

- Đảng được nhân dân tin cậy, thừa nhận là lực lượng dẫn dắt họ đi tới ấm no, hạnh phúc.
Hồ Chí Minh khẳng định: sở dĩ cách mạng Việt Nam giành được những thắng lợi to lớn là nhờ “ta có một Đảng to lớn, mạnh mẽ, to lớn mạnh mẽ là vì có chủ nghĩa Mác-Lênin, có sự cố gắng không ngừng của toàn thể đảng viên, vì được toàn quân, toàn dân tin yêu, ủng hộ”.

3. Bản chất của Đảng Cộng sản Việt Nam

- Theo quan điểm của Mác, Awngghen, Lênin: Đảng cộng sản là đảng của giai cấp vô sản, đấu tranh đòi quyền lợi cho giai cấp vô sản nước mình và toàn bộ giai cấp vô sản thế giới.
Đảng bao gồm những phần tử tiên tiến nhất trong giai cấp vô sản, là đội tiền phong, bộ tham mưu chiến đấu của giai cấp vô sản.

- Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về bản chất giai cấp công nhân của Đảng Cộng sản Việt Nam chúng ta thấy nhận thức của Người về vấn đề này là nhất quán. Quá trình này được thể hiện như sau:

+ Về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân ở các nước tư bản đã được Mác và Awngghen khẳng định, còn vấn đề sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân ở các nước thuộc địa nơi có số lượng giai cấp công nhân ít, trình độ văn hóa, khoa học kỹ thuật thấp là điều mà Hồ Chí Minh hết sức quan tâm, tìm hiểu, nghiên cứu và đã có những kết luận đúng đắn. Qua nghiên cứu, khoa sát phong trào công nhân ở các nước thuộc địa cũng như ở Việt Nam, Hồ Chí Minh khẳng định: “Ngày nay giai cấp công nhân là giai cấp độc nhất và duy nhất có thể đương đầu với đế quốc, thực dân nên là giai cấp duy nhất có thể lãnh đạo cách mạng”.

+ Trong cương lĩnh tháng 2/1930, Hồ Chí Minh viết: “ Đảng là đội tiên phong của giai cấp vô sản”

+ Đến Đại hội II (2/1951) từ điều kiện lịch sử cụ thể lúc này Người nói: Đảng của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động, chính vì vậy là Đảng của dân tộc Việt Nam.

+ Trong tác phẩm “Thường thức chính trị” (1953) Hồ Chí Minh viết “ Đảng của giai cấp lao động, Đảng của toàn dân”

+ Tháng 2/1951, Bác viết: “Trong giai đoạn này, quyền lợi của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc là một. Chính vì Đảng là đảng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động cho nên nó phải là Đảng của cả dân tộc Việt Nam”.

+ Năm 1961, Bác viết: “Đảng ta là đảng của giai cấp công nhân, đồng thời là Đảng của dân tộc không thiên tư, thiên vị.”

Từ quy luật hình thành và phát triển đảng, Hồ Chí Minh đã đi đến luận điểm Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng của giai cấp công nhân đồng thời là Đảng của cả dân tộc Việt Nam. Đảng là đội tiền phong của đạo quân vô sản, Đảng tập hợp vào hàng ngũ của mình những người “tin theo chủ nghĩa cộng sản, chương trình Đảng và quốc tế cộng sản… dám hy sinh phục tùng mệnh lệnh Đảng và đóng kinh phí, chịu phấn đấu trong một bộ phận của Đảng”.

Cách diễn đạt của Hồ Chí Minh về bản chất giai cấp công nhân của Đảng xét về mặt ngôn từ có chỗ khác nhau nhưng thực chất Người luôn khẳng định tính chất giai cấp công nhân của Đảng Cộng sản Việt Nam. Điều này thể hiện:

Về tính giai cấp công nhân
+ Đảng lấy chủ nghĩa Mác-Lênin làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động. chủ nghĩa Mác-Lênin là hệ tư tưởng của giai cấp công nhân.

+ Đảng đưa đất nước đi lên chủ nghĩa xã hội

+ Đảng tổ chức và sinh hoạt theo những nguyên tắc Đảng kiểu mới của giai cấp vô sản.

Về tính dân tộc của Đảng
+ Đảng đại diện và tiêu biểu cho lợi ích của toàn dân tộc, hoạt động của Đảng là nhằm đem lại lợi ích cho toàn thể dân tộc. Hồ Chí Minh viết: “ngoài lợi ích của Tổ quốc và nhân dân, Đảng ta không có lợi ích nào khác”.

+ Đảng viên của Đảng bao gồm những người Việt Nam yêu nước, những người con ưu tú của dân tộc.

+ Cơ sở xã hội của Đảng rất rộng lớn cả dân tộc bao gồm cả quốc dân, trừ bọ phản quốc và tham ô ra ngoài.

+ thành phần xuất thân của đảng viên rất đa dạng: công nhân, nông dân, trí thức, tiểu tư sản…

4. Quan niệm về Đảng cộng sản Việt Nam cầm quyền

a) Đảng lãnh đạo nhân dân giành chính quyền trở thành Đảng cầm quyền

Hồ Chí Minh đã sớm xác định độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là con đường tất yếu của cách mạng Việt Nam. Cách mạng Việt Nam muốn thành công phải đi theo chủ nghĩa Mác-Lênin, phải có sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Đồng thời, Người chỉ rõ “... chỉ có đảng nào theo lý luận cách mạng tiền phong, đảng cách mạng mới làm nổi trách nhiệm cách mạng tiền phong”, “Đảng muốn vững phải có chủ nghĩa làm cốt, trong Đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy” “bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mạng nhất là chủ nghĩa Lênin”... Chủ nghĩa Mác-Lênin là học thuyết về giải phóng giai cấp công nhân, nhân dân lao động, các dân tộc bị áp bức và giải phóng con người nói chung, đồng thời là học thuyết về sự phát triển xã hội lên một hình thái cao hơn, xoá bỏ hoàn toàn bất công, nguồn gốc đẻ ra sự bóc lột, áp bức. “Chủ nghĩa Mác-Lênin là lực lượng tư tưởng hùng mạnh chỉ đạo đảng chúng tôi, làm cho đảng chúng tôi có thể trở thành hình thức tổ chức cao nhất của quần chúng lao động, hiện thân của trí tuệ, danh dự và lương tâm của dân tộc chúng tôi”.

Đảng lấy chủ nghĩa Mác-Lênin làm cốt có nghĩa là Đảng ta nắm vững tinh thần của chủ nghĩa Mác-Lênin, lập trường, quan điểm và phương pháp của chủ nghĩa Mác-Lênin, đồng thời nắm vững tinh hoa văn hoá dân tộc và trí tuệ thời đại vận dụng sáng tạo vào hoàn cảnh cụ thể của nước ta. Không máy móc, kinh viện, giáo điều.

Hồ Chí Minh khẳng định Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng cách mạng chân chính, mang bản chất của giai cấp công nhân. Đảng không phải là một tổ chức tự thân và vì vậy, mục đích, tôn chỉ của Đảng là “ tận tâm”, ‘tận lực”, “phụng sự”, và “trung thành” với lợi ích của dân tộc việt Nam; ngoài lợi ích của giai cấp của nhân dân và toàn thể dân tộc Việt Nam, Đảng không có lợi ích nào khác.
Với đường lối chính trị đúng đắn, tổ chức chặt chẽ, Đảng đã lãnh đạo toàn dân tộc giành chín h quyền, thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Đó cũng là thời điểm Đảng Cộng sản Việt Nam trở thành Đảng cầm quyền.

b) Quan niệm của Hồ Chí Minh về Đảng cầm quyền

 “Đảng cầm quyền” là khái niệm dùng trong khoa học chính trị, chỉ một đảng chính trị đại diện cho một giai cấp đang nắm giữ và lãnh đạo chính quyền để điều hành quản lý đất nước nhằm thực hiện lợi ích của giai cấp mình. Ở các nước tư bản chủ nghĩa, nếu một chính đảng có có đại biểu giành được đa số phiếu tại các cuộc bầu cử trong Quốc hội thì đảng đó trở thành đảng cầm quyền.

- Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, có thể bắt gặp các khái niệm cùng chỉ một hiện tượng Đảng lãnh đạo xã hội sau khi giành được chính quyền nhà nước. Theo Hồ Chí Minh, “Đảng cầm quyền” là đảng tiếp tục lãnh đạo sự nghiệp cách mạng trong điều kiện Đảng đã lãnh đạo quần chúng nhân dân giành được quyền lực nhà nước và Đảng trực tiếp lãnh đạo bộ máy nhà nước đó để hoàn thành sự nghiệp độ lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội.

- Trong điều kiện Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền, bản chất, mục đích, lý tưởng của Đảng không thay đổi mà còn có  thêm những điều kiện và sức mạnh nhằm hiện thực hóa mục đích, lý tưởng ấy.

- Đảng cầm quyền, dân là chủ: Hồ Chí Minh nhấn mạnh rằng, Đảng lãnh đạo cách mạng là để thiết lập và củng cố quyền làm chủ của nhân dân. Theo Người, quyền lực thuộc về nhân dân là bản chất, là nguyên tắc số một của chế độ mới, một khi xa rời nguyên tắc này, Đảng sẽ trở thành đối lập với dân. Dân làm chủ, Đảng lãnh đạo, Đảng phải lấy dân làm gốc.

Mặt khác, dân muốn làm chủ thật sự thì phải theo Đảng. mỗi người dân phải biết lợi ích và bổn phận của mình tham gia xây dựng chính quyền.

- Đảng cầm quyền vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ trung thành của nhân dân.  Quan điểm này là sự vận dụng, phát triển hết sức sáng tạo lý luận Mác-Lênin về đảng vô sản kiểu mới.

Quan niệm của hồ chí minh về vai trò và bản chất của đảng cộng sản việt nam

Tư tưởng hồ chí minh về con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở việt nam


1. Về thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam:

a. Các nhà sáng lập Chủ nghĩa xã hội khoa học nói về tính tất yếu của thời kỳ quá độ.

- Trong tác phẩm “phê phán cương lĩnh Gô-ta”, Mác viết: “Giữa xã hội tư bản chủ nghĩa và Cộng Sản chủ nghĩa là một thời kỳ cải biến cách mạng từ xã hội nọ sang xã hội kia. Thích ứng với thời kỳ ấy là một thời kỳ quá độ chính trị, và nhà nước của thời kỳ ấy không thể là cái gì khác hơn là nền chuyên chính cách mạng của giai cấp vô sản”.

Đó là Mác nói đến con đường quá độ lên Chủ nghĩa xã hội  ở các nước tư bản phát triển cao, cơ sở vật chất và kỹ thuật cho Chủ nghĩa xã hội  đã được chủ nghĩa tư bản  chuẩn bị tương đối đầy đủ.
- Xuất phát từ một nước tư bản phát triển trung bình có xuất phát điểm thấp hơn so với các nước Tây Âu về kinh tế văn hoá, theo Lênin, bước quá độ lên Chủ nghĩa xã hội ở Nga là một thời kỳ lịch sử tương đối dài, nó cần thiết phải thực hiện những bước quá độ nhỏ, những nhịp cầu, những hình thức kinh tế trung gian để dần dần lôi cuốn nhân dân Nga, mà đa số là tiểu nông, đi lên Chủ nghĩa xã hội .
Lênin viết: “Nếu phân tích tình hình chính trị hiện nay, chúng ta có thể nói rằng chúng ta đang ở vào một thời kỳ quá độ trong thời kỳ quá độ”.
- Cũng xuất phát từ đặc thù của nước Nga, Lênin đã nêu lên tư tưởng về thời kỳ quá độ bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa đối với các nước tiểu nông; “với sự giúp đỡ của giai cấp vô sản các nước tiên tiến, các nước lạc hậu có thể tiến tới chế độ Xô – Viết, và qua những giai đoạn phát triển nhất định, tiến tới Chủ nghĩa cộng sản, không phải trải qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa”.

Như vậy, theo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin có hai con đường quá độ lên Chủ nghĩa xã hội: một con đường quá độ trực tiếp lên Chủ nghĩa xã hội  từ những nước tư bản công nghiệp phát triển cao, và một con đường phát triển ở những nước tiền tư bản chủ nghĩa, quá độ gián tiếp lên Chủ nghĩa xã hội  bỏ qua chế độ tư bản. Ở trường hợp sau, chủ nghĩa Mác - Lênin đã vạch rõ, nó chỉ có thể thực hiện được với điều kiện có sự giúp đỡ của một nước công nghiệp tiên tiến đã làm cách mạng xã hội chủ nghĩa  thành công và phải có sự lãnh đạo của một chính Đảng vô sản kiên trì đưa đất nước theo con đường Chủ nghĩa xã hội .

b. Quan niệm của Hồ Chí Minh về thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội  ở Việt Nam:

- Trước hết, Người đã lưu ý chúng ta cần nhận thức rõ tính quy luật chung và đặc điểm lịch sử cụ thể của mỗi nước khi bước vào xây dựng Chủ nghĩa xã hội:  “Nhưng tuỳ thời kỳ mà các dân tộc phát triển theo con đường khác nhau…”. Nói cách khác, Người đã chỉ ra hai phương thức quá độ chủ yếu: phương thức quá độ trực tiếp (từ chủ nghĩa tư bản  đi lên Chủ nghĩa xã hội ) và phương thức quá độ gián tiếp (từ nghèo nàn, lạc hậu, tiền tư bản chủ nghĩa, qua cách mạng dân chủ nhân dân đi lên Chủ nghĩa xã hội ).
- Hồ Chí Minh đã chỉ ra những đặc điểm và mâu thuẫn của thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội  ở Việt Nam.

Sau 1954, Miền Bắc nước ta bước vào thời kỳ quá độ trong bối cảnh quốc tế tương đối thuận lợi… Nhưng xuất phát từ đặc điểm to lớn nhất là “từ một nước nông nghiệp lạc hâu tiến thẳng lên Chủ nghĩa xã hội không phải kinh qua giai đoạn đi lên Tư bản chủ nghĩa”. Đặc điểm này đã thâu tóm đầy đủ những mâu thuẫn, khó khăn, phức tạp. Nó đặt ra hàng loạt vấn đề lý luận và thực tiễn mà chúng ta cần nhận thức và giải đáp một cách đúng đắn để tìm ra con đường với những hình thức, bước đi và cách làm phù hợp với đặc điểm đó.

Từ đặc điểm đó, Hồ Chí Minh đã nhiều lần chỉ rõ: “Tiến lên Chủ nghĩa xã hội, không thể một sớm một chiều. Đó là cả một công tác tổ chức và giáo dục”. Là “gian nan, phức tạp hơn việc đánh giặc”. “Chủ nghĩa xã hội không thể làm mau được mà phải làm dần dần”.

Về độ dài của thời kỳ quá độ, xuất phát từ mâu thuẫn của thời kỳ quá độ ở nước ta là mâu thuẫn giữa yêu cầu phải tiến lên xây dựng một chế độ mới có kinh tế công nghiệp, nông nghiệp hiện đại, có văn hoá, khoa học tiên tiến với tình trạng lạc hậu kém phát triển lại đối phó với bao thế lực cản trở, phá hoại mục tiêu của chúng ta, Người nói: “Xây dựng Chủ nghĩa xã hội là một cuộc đấu tranh cách mạng phức tạp, gian khổ và lâu dài”, là một cuộc biến đổi khó khăn nhất và sâu sắc nhất”. Vì chúng ta phải xây dựng một xã hội hoàn toàn mới xưa nay chưa từng có trong lịch sử dân tộc ta. Chúng ta phải thay đổi triệt để những nếp sống, thói quen, ý nghĩ và thành kiến có gốc rễ sâu xa hàng ngàn năm. Chúng ta phải thay đổi quan hệ sản xuất cũ, xoá bỏ giai cấp bốc lột, xây dựng quan hệ sản xuất mới… phải dần dần biến nước ta từ một nước nông nghiệp lạc hậu thành một nước công nghiệp”. Người khẳng định lại : thời kỳ quá độ là một thời kỳ lịch sử lâu dài, đầy khó khăn.
- Về nhiệm vụ lịch sử của thời kỳ quá độ: Theo Bác là xây dựng nền tảng cơ sở vật chất  - kỹ thuật cho Chủ nghĩa xã hội.

2. Về bước đi và phương thức, biện pháp xây dựng CNXH ở Việt Nam:

Chủ nghĩa xã hộ có mục tiêu, nguyên lý chung giống nhau, nhưng mỗi nước có đặc điểm lịch sử cụ thể khác nhau, nên phương thức, biện pháp, bước đi, cách làm… Chủ nghĩa xã hội không giống nhau. Người nói: “ta không thể giống Liên Xô,… ta có thể đi con đường khác để tiến lên Chủ nghĩa xã hội …”.

a. Về bước đi của thời kỳ quá độ:

Thấm nhuần những chỉ dẫn của Lê nin “phải kiên nhẫn bắc những  nhịp cầu nhỏ, vừa tầm, lựa chọn những giải pháp trung gian, quá độ.”. Tư tưởng chỉ đạo của Hồ Chí Minh về bước đi của thời kỳ quá độ ở Việt Nam là phải qua nhiều bước, “bước ngắn, bước dài, tuỳ theo hoàn cảnh” nhưng “chớ ham làm mau, ham rầm rộ… đi bước nào vững chắc bước ấy, cứ tiến dần dần.”
Về bước đi trong cải tạo nông nghiệp: Người nói: “… lúc đầu là cải cách ruộng đất, sau tiến lên một bước là tổ chức tổ đổi công sao cho tốt, cho khắp, lại tiến lên hình thức hợp tác xã dễ dàng, rồi tiến lên hợp tác xã cao hơn…”.
Về bước đi trong phát triển công nghiệp: Người sớm đề phòng bệnh duy ý chí: mấy năm kháng chiến, ta chỉ có nông thôn, bây giờ mới có thành thị… nếu muốn công nghiệp hoá gấp là chủ quan… Ta cho nông nghiệp là quan trọng và ưu tiên, rồi đến tiểu thủ công nghiệp và công nghiệp nhẹ, sau mới đến công nghiệp nặng, “làm trái với Liên Xô cũng là mác xít”.

b. Về phương thức, biện pháp, cách thức xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam:

Người luôn nhắc nhở phải luôn nêu cao tinh thần độc lập, tử chủ, sáng tạo, chống giáo điều, rập khuôn kinh nghiệm nước ngoài, phải suy nghĩ, tìm tòi, sáng tạo ra cách làm phù hợp với thực tiễn Việt Nam. Cụ thể:
+   Trong bước đi và cách làm Chủ nghĩa xã hội ở Miền Bắc, phải thể hiện được sự kết hợp giữa hai nhiệm vụ chiến lược của Cách mạng Việt Nam : “xây dựng Miền Bắc, giải phóng miền Nam...”

Tư tưởng hồ chí minh về con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở việt nam

Thứ Tư, 26 tháng 11, 2014

vận dụng tư tưởng hồ chí minh về chủ nghĩa xã hội


Đây là một hệ thống bao gồm các luận điểm về bản chất, mục tiêu và động lực của Chủ nghĩa xã hội; về tính tất yếu của thời ký quá độ và các hình thức,
bước đi trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Tất nhiên, trong điều kiện, hoàn cảnh của miền Bắc trong những năm 60 của thế kỷ XX nên có nhiều điều Người chưa kịp tổng kết.
Ngày nay, xây dựng Chủ nghĩa xã hội trong bối cảnh quốc tế và trong nước có nhiều thay đổi, nhưng những luận điểm của Người về vấn đề này vẫn là cơ sở lý luận và phương pháp luận chỉ đạo để chúgn ta tiếp tục suy nghĩ, tìm tòi làm sống động tư tưởng của Người.
Khái quát về công cuộc đổi mới từ đại hội VI (1986) đến đại hội IX với những thành tựu của nó để khẳng định đường lối do Đảng và Hồ Chí Minh vạch ra là đúng đắn.
Vấn đề thời cơ và nguy cơ. Để tận dụng thời cơ, vượt qua thử thách, tiếp tục đẩy mạnh công cuộc đổi mới tiến lên cùng những thành tựu mới, Đảng ta đang kiên trì vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh nhằm giải quyết tốt các vấn đề dưới đây:

1. Trong quá trình đổi mới, phải kiên trì mục tiêu độc lập dân tộc và Chủ nghĩa xã hội trên nền tảng Chủ Nghĩa Mác- Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh.

Phân tích các ý sau:
- Đây là MT bất biến của Đảng và nhân dân ta.
- Mối quan hệ giữa MT độc lập dân tộc và Chủ nghĩa xã hội.
Sự nghiệp đổi mới ngày nay với mục tiêu “dân giàu, nước mạnh…” cũng là để hoàn thành mục tiêu của Đảng và nhân dân ta trong hoàn cảnh mới.
Tác động sau khi Chủ nghĩa xã hội Liên Xô và Đông Âu sụp đổ – bài học.
Xây dựng Chủ nghĩa xã hội gián tiếp… là sự biến đổi về chất trên tất cả các lĩnh vực, là một sự nghiệp khó khăn, phức tạp.

  2. Đổi mới là sự nghiệp của nhân dân, do đó cần phát huy quyền làm chủ của nhân dân, khơi dậy mạnh mẽ tất cả các nguồn lực, trước hết là nguồn nội sinh, để thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.

- Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là yêu cầu có tính quy luật đối với các nước nông nghiệp lạc hậu quá độ lên Chủ nghĩa xã hội bỏ qua giai đoạn đi lên Tư bản chủ nghĩa. Chúng ta phải tranh thủ những thành tựu của cuộc Cách Mạng khoa học và công nghệ… để nhanh chóng biến nước ta thành một nước công nghiệp hiện đại.
Để công nghiệp hoá, hiện đại hoá thành công, chúng ta cần phát huy tất cả các nguôn lực bên trong và bên ngoài, lấy nguồn lực bên trong làm gốc để phát huy nguồn lực bên ngoài. Phải quán triệt sâu sắc quan điểm của chủ tịch Hồ Chí Minh: Chủ nghĩa xã hội là công trình tập thể của nhân dân, do nhân dân tự xây dựng lấy dưới sự lãnh đạo của Đảng, phải “đem tài dân, sức dân, của dân làm lợi cho dân”.
Nguồn nội lực con người là to lớn (trên 80 triệu dân với sức lực, trí tuệ, tài năng…), làm thế nào để khơi dậy mạnh mẽ nguồn nội lực đó?
Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh, ta phải phát huy cao độ quyền làm chủ của người dân, tạo nên không khí dân chủ, cởi mở trong xã hội. Muón thế phải nâng cao dân trí, bồi dướng văn hoá chính trị, trau dồi bản lĩnh công dân, cung cấp thông tin đúng đắn cho người dân, phải thực hiện cơ chế “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”, tạo cho người dân có điều kiện tham gia giám sát công việc của Nhà nước. Đồng thời phải thực hiện nhất quán chiến lược Đ ĐK của Hồ Chí Minh, trên cơ sở lấy liên minh công – nông - trí thức làm nòng cốt, tranh thủ sự đóng góp ủng hộ của tất cả những ai tán thành đổi mới vì mục tiêu “dân giau, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.

3. Đổi mới phải kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đaị:

Sự tác động của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ… phải khai thác và sử dụng tốt nguồn lực bên ngoài: vốn, kinh nghiệm quản lý, và công nghệ hiện đại (phân tích)
Hợp tác bên ngoài đi đôi với thường xuyên khơi dậy chủ nghĩa yêu nước, tinh thần độc lập dân tộc, kêu gọi toàn dân sẵn sàng đem nhân lưc, vật lực, tài lực để tăng cường sức mạnh quốc gia.
Giao lưu, hội nhập đồng thời phải không ngừng trau đồi bản lĩnh và bản sắc văn hoá dân tộc, đặc biệt cho
Chỉ có bản lĩnh và bản sắc dân tộc sâu sắc, mạnh mẽ mới tạo ra bộ lọc tốt để tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại, đồng thời có sức đề kháng tốt để chống lại mọi yếu tố văn hoá độc hại từ bên ngoài tràn vào.

4. Xây dựng Đảng vững mạnh, làm trong sạch bộ máy nhà nước. Đẩy mạnh đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng, thực hiện cần kiệm xây dựng Chủ nghĩa xã hội.

- Để phát huy quyền làm chủ của nhân dân, đòi hỏi Đảng và Nhà nước, cán bộ, đảng viên phải thực sự trong sạch, cần kiệm liêm chính, thực sự là người “đầy tớ trung thành của nhân dân”
- Đảng và Nhà nước phải có chủ trương, đường lối, chính sách đúng đắn.
Bài học thực tiễn đã nhắc nhỡ chúng ta phải không ngừng xây dựng Đảng và Nhà nước trong sạch, vững mạnh; kiên quyết loại trừ nhừng phần tử thoái hóa, biến chất làm cho đội ngũ cán bộ ngày càng vững mạnh.
- Phải thường xuyên chăm lo mối quan hệ gắn bó, máu thịt giữa Đảng và Nhà nước với nhân dân.

vận dụng tư tưởng hồ chí minh về chủ nghĩa xã hội

Vận dụng Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc trong công cuộc đổi mới hiện nay


Trong 15 năm đổi mới đạt được những thành tựu to lớn, song sự nghiệp xây dựng bảo vệ đất nước cũng đang đứng trước những thời cơ và thách thức to lớn mà chúng ta phải chủ động đón lấy
và vượt qua. Trong lúc này, cần nắm chắc, vận dụng Tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội đưa sự nghiệp đổi mới vững bước tiến lên.

1) Khơi dậy sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc, nguồn động lực mạnh mẽ để xây dựng và bảo vệ đất nước:

Hội nghị lần thứ tư (Khóa VIII) BCHTW Đảng đặt vấn đề phải xác định rõ các nguồn lực và phát huy tối đa các nội lực, yếu tố quan trọng nhất, quyết định nhất là nguồn lực con người với sức mạnh vật chất và tinh thần.
Con người Việt Nam vốn có truyền thống yêu nước, gắn kết cộng đồng, có ý chí kiên cường bất khuất, không chịu làm nô lệ, không cam phận hèn…
Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ cứu nước của dân tộc, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Bác Hồ, tinh thần yêu nước ấy đã được phát huy cao độ, biến thành chủ nghĩa anh hùng cách mạng vô song, đưa đến thắng lợi vĩ đại ở Điện Biên Phủ và đại thắng mùa xuân năm 1975, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc.
Trong công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, truyền thống quý báu ấy cần tiếp tục khơi dậy mạnh mẽ, biến nó thành một nguồn nội lực vô tận để đưa đất nước vượt qua mọi nguy cơ thử thách, vững bước tiến lên.

2) Quán triệt Tư tưởng Hồ Chí Minh, nhận thức và giải quyết vấn đề dân tộc trên quan điểm giai cấp.

- Luôn khẳng định vai trò lịch sử của giai cấp công nhân, vai trò độc quyền lãnh đạo của Đảng tiên phong của giai cấp công nhân trong quá trình cách mạng Việt Nam.
- Chủ trương đại đòan kết dân tộc rộng rãi nhưng phải dựa trên nền tảng liên minh công – nông – trí, dưới sự lãnh đạo của Đảng.
- Trong đấu tranh giành và giữ chính quyền, cần thiết phải biết sử dụng bạo lực của quần chúng để chống lại bạo lực phản cách mạng của kẻ thù.
- Mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với Chủ nghĩa xã hội.

3) Chăm lo xây dựng khối đoàn kết dân tộc giải quyết tốt mối quan hệ giữa các dân tộc anh em và trong cộng đồng dân tộc Việt Nam.

- Nhờ vận dụng sáng tạo và kết hợp nhuần nhuyễn mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp, Hồ Chí Minh đã rất thành công trong việc xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc, đại đoàn kết các dân tộc đa số và thiểu số, khơi dậy và phát huy được tiềm năng cách mạng của toàn dân tộc, đưa đến thắng lợi vĩ đại của sự nghiệp giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước.
- Trong thời kỳ lịch sử mới, Đảng ta tiếp tục giương cao ngọn cờ đại đoàn kết của Hồ Chí Minh, ra sức phấn đấu để tăng cường và mở rộng khối đại đoàn kết toàn dân lấy liên minh giai cấp công nhân, nông dân và tầng lớp trí thức làm nền tảng, lấy mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh làm điểm tương đồng, đồng thời chấp nhận những quan điểm khác nhau không trái với lợi ích chung của dân tộc… (NQ 07/1993)
- Phải chăm lo và giải quyết tốt hơn nữa mối quan hệ giữa các dân tộc anh em trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam, Đại hội IX nêu rõ: “Vấn đề dân tộc và đoàn kết dân tộc luôn có vị trí chiến lược trong sự nghiệp cách mạng”. Đại đoàn kết các dân tộc anh em trên lãnh thổ Việt Nam là một nhân tố quyết định thắng lợi của sự nghiệp dựng nước và giữ nước. (Văn kiện ĐH IX tr.127) (xem GTQG tr.86).
- Trong việc đền ơn, đáp nghĩa cho đồng bào miền núi, giúp miền núi nhanh chóng tiến kịp miền xuôi, Người dạy: “Các cấp bộ Đảng phải thi hành đúng chính sách dân tộc, thực hiện sự đoàn kết, bình đẳng, tương trợ giữa các dân tộc”.
- Sau 15 năm đổi mới, đời sống của nhân dân miền núi đã có những chuyển biến rõ nét. Tuy nhiên không phải không có những cơ sở cho các thế lực thù địch khai thác, lợi dụng.
- Để loại trừ nguyên nhân có thể dẫn đến căng thẳng trong mối quan hệ giữa các dân tộc, có thể bị kẻ thù lợi dụng, chúng ta phải thực hiện thắng lợi các mục tiêu mà ĐH IX của Đảng đã đề ra cho miền núi, trong đó có nhiệm vụ: xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội, phát triển sản xuất hàng hóa, xóa đói, giảm nghèo; gìn giữ và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc; đặc biệt quan tâm vùng gặp nhiều khó khăn, vùng trước đây là căn cứ cách mạng và kháng chiến, thực hiện chính sách ưu tiên trong việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ dân tộc thiểu số, chống kỳ thị chia rẽ dân tộc.

Vận dụng Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc trong công cuộc đổi mới hiện nay

Tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc


 Hồ Chí Minh đã qua gần 10 năm nghiên cứu, khảo sát các cuộc cách mạng trên thế giới và thâm nhập vào cuộc sống của nhân dân các dân tộc bị áp bức
ở các nước thuộc địa để từ đó vạch ra con đường giải phóng phù hợp cho dân tộc Việt Nam.
Năm 1930, Người đọc “Sơ thảo…” Lênin làm cho Người sáng tỏ … Người biểu quyết tná thành gia nhập quốc tế Cộng sản, đánh dấu…
Sau đó Người đã tham gia hoạt động lý luận và thuyết diễn cực kỳ sôi nổi trong Đảng Cộng sản Pháp và quốc tế Cộng sản.
Cuối 1924, đến Quảng Châu – Trung Quốc, sáng lập hội Việt Nam cách mạng thanh niên, xuất bản báo Thanh niên, mở lớp huấn luyện cán bộ… Trong thời gian này, Người cho xuất bản các tác phẩm “Bản…”, và tác phẩm “Đường Cách mạng”. Tháng 2/30, tại Hội nghị hợp nhất, Người trực tiếp thảo ra các văn kiện: Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt… những văn kiện này đã đánh dấu sự hình thành cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường cách mạng giải phóng dân tộc của Việt Nam.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa có thể tóm tắt thành một hệ thống luận điểm như sau:

1) Cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải đi theo con đường của cách mạng vô sản:

- Thất bại của các phong trào yêu nước cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX ở nước ta là do chưa có đường lối và phương pháp đấu tranh đúng đắn khi chủ nghĩa đế quốc đã thành một hệ thống thế giới. Chủ nghĩa đế quốc vừa tranh giành nhau xâu xé thuộc địa vừa liên kết với nhau trong việc đàn áp phong trào đấu tranh giành độc lập của các dân tộc thuộc địa.
- Các nước thuộc địa chẳng những cung cấp nguyên liệu mà còn cung cấp binh lính cho quân đội đế quốc nhằm đàn áp các phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân ở chính quốc.
- Trong cuộc đấu tranh tự giải phóng, giai cấp vô sản ở chính quốc và nhân dân các thuộc địa có chung một kẻ thù, vì vậy phải phối hợp hành động và cổ vũ lẫn nhau.
Từ đầu những năm 20 thế kỷ XX, Nguyễn Ái Quốc đã chỉ rõ: chủ nghĩa đế quốc là một con đỉa có… Từ đó phải kết hợp cách mạng vô sản ở chính quốc với cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa; phải xem cách mạng ở thuộc địa như là “một trong những cái cách của cách mạng vô sản”, phát triển nhịp với cách mạng vô sản; mặt khác cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải theo con đường cách mạng vô sản, tức là phải đi theo đường lối Mác Lênin.

2)Cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải do Đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo:

Nguyễn Ái Quốc đã sớm khẳng định: muốn giải phóng dân tộc thành công “Trước hết phải có đảng cách mệnh. Đảng có vững chắc mệnh mới thành công… Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt… Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin”. Như vậy Nguyễn Ái Quốc đã khẳng định: cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng của giai cấp công nhân, Đảng đó phải được xây dựng theo các nguyên tắc Đảng kiểu mới của Lênin, được vũ trang bằng chủ nghĩa Mác Lênin.
Các lãnh tụ yêu nước tiền bối cũng đã bước đầu nhận thức được tầm quan trọng và vai trò của chính đảng cách mạng. Phan Chu Trinh đã nói: ngày nay, muốn có độc lập, tự do, phải có đoàn thể, nhưng ông chỉ kịp nói mà không kịp làm. Phan Bội Châu đã tổ chức ra Đảng Việt Nam Quang phục hội, sau dự định cải tổ nó thành Việt Nam Quốc dân đảng theo kiểu Tôn Trung Sơn, nhưng ông chưa kịp thực hiện thì đã bị bắt, bị đưa về giam lỏng tại Huế.
Dù đã thành lập hay chưa thì các đảng kiểu đó cũng không thể lãnh đạo cách mạng giải phóng dân tộc đi đến thành công, vì nó thiếu một đường lối chính trị đúng đắn và một đường lối tổ chức chặt chẽ; lại không có cơ sở rộng rãi trong quần chúng, nên sớm muộn cũng rơi vào tan rã và thất bại.

3) Cách mạng giải phóng dân tộc là sự nghiệp đoàn kết của toàn dân, trên cơ sở liên minh công nông:

-Cách mạng giải phóng dân tộc như Nguyễn Ái Quốc viết “là việc chung cả dân chúng chứ không phải việc một hai người”, vì vậy phải đoàn kết toàn dân, “sĩ, công, nông, thương đều nhất trí chống lại cường quyền”. Nhưng trong sự tập hợp rộng rãi đó, Người nhắc nhở không được quên cái cốt của nó là công- nông. Phải nhớ: “Công nông là người chủ cách mệnh… Công nông là gốc cách mệnh”.
- Trong phạm vi của cách mạng giải phóng dân tộc mà đối tượng cần đánh đổ trước hết là bọn đế quốc và địa chủ phong kiến tay sai nhằm giành lại độc lập dân tộc và dân chủ cho nhân dân, trước hết là nông dân, nên Nguyễn Ái Quốc chủ trương cần vận động, tập hợp rộng rãi các tầng lớp nhân dân Việt Nam đang mất nước, đang bị làm nô lệ trong một mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi nhằm huy động sức mạnh của toàn dân tộc đấu tranh giành độc lập tự do.
- Người đã viết trong Sách lược vắn tắt tại Hội nghị thành lập Đảng đầu năm 1930: “Đảng phải hết sức liên lạc với tiểu tư sản, trí thức, trung nông, thanh niên, tân Việt…, để kéo họ đi vào phe vô sản giai cấp. Còn đối với bọn phú nông, trung, tiểu địa chủ và tư bản An Nam mà chưa rõ mặt phản cách mạng thì phải lợi dụng, ít lâu mới làm cho họ đứng trung lập. Bộ phận nào đã rõ mặt phản cách mạng (Đảng Lập hiến, v.v…) thì phải đánh đổ.
- Do chưa phân biệt được sự khác nhau giữa yêu cầu mục tiêu của cách mạng vô sản ở các nước tư bản phát triển với cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa, lại chịu sự chi phối của quan điểm “tả” khuynh của đường lối “giai cấp chống giai cấp” đang tồn tại trong Quốc tế Cộng sản lúc bấy giờ, nên đã có ý kiến cho rằng Nguyễn Ái Quốc quá chú trọng vấn đề dân tộc, “chỉ nghĩ đến việc phản đế mà quên mất lợi ích giai cấp đấu tranh”,v.v…
- Thực ra, trong khi chủ trương đoàn kết, tập hợp rộng rãi các lực lượng dân tộc chống đế quốc, Hồ Chí Minh vẫn nhắc nhở phải quán triệt quan điểm giai cấp: “Công nông là gốc cách mệnh; còn học trò, nhà buôn nhỏ, điền chủ cũng bị tư sản áp bức, song không cực khổ bằng công nông, ba hạng ấy chỉ là bầu bạn cách mệnh của công nông thôi”. Và trong khi liên lạc với các giai cấp, phải rất cẩn thận, không khi nào nhượng một chút lợi ích gì của công nông mà đi vào đường lối thỏa hiệp”.

4) Cách mạng giải phóng dân tộc cần được tiến hành chủ động, sáng tạo và có khả năng giành thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc:

- Đây là một điểm mới mẻ và sáng tạo của Hồ Chí Minh. Trong phong trào cộng sản quốc tế, như đã nói ở trên, đã từng tồn tại quan điểm xem thắng lợi của cách mạng thuộc địa phụ thuộc trực tiếp vào thắng lợi của cách mạng vô sản ở chính quốc. Tuyên ngôn thành lập Quốc tế Cộng sản năm 1919 có đoạn viết: “Công nhân và nông dân không những ở An Nam, Angiêri, Bengan mà cả Ba Tư hay Ácmênia chỉ có thể giành được độc lập khi mà công nhân các nước Anh và nước Pháp lật đổ được Lôiit Gioócgiơ và Clêmăngxô, giành chính quyền nhà nước vào tay mình”.
Những luận cương về phong trào cách mạng trong các nước thuộc địa và nửa thuộc địa được thông qua Đại hội VI Quốc tế Cộng sản, ngày 1-9-1928 viết: “Chỉ có thể thực hiện hoàn toàn công cuộc giải phóng các thuộc địa khi giai cấp vô sản giành được thắng lợi ở các nước tư bản tiên tiến”. Quan điểm này, vô hình trung đã giảm tính chủ động, sáng tạo của các phong trào cách mạng ở thuộc địa.
- Phát biểu tại Đại hội V Quốc tế Cộng sản (1924) Nguyễn Ái Quốc đã phân tích: “Vận mệnh giai cấp vô sản thế giới và đặc biệt là vận mệnh giai cấp vô sản ở các nước đi xâm lược thuộc địa gắn chặt với vận mệnh của giai cấp bị áp bức ở các thuộc địa… nọc độc và sức sống của con rắn độc tư bản chủ nghĩa đang tập trung ở các thuộc địa”, nếu khinh thường cách mạng ở thuộc địa tức là “muốn đánh rắn đằng đuôi”.
- Vận dụng công thức của Các Mác: “Sự giải phóng giai cấp công nhân phải là sự nghiệp của bản thân giai cấp công nhân”, Nguyễn Ái Quốc đã đi tới điểm: “Công cuộc giải phóng anh em (tức nhân dân thuộc địa) chỉ có thể thực hiện được bằng sự nỗ lực của bản thân anh em”.
- Do nhận thức được thuộc địa là một khâu yếu trong hệ thống của chủ nghĩa đế quốc, do đánh giá đúng đắn sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc, ngay từ năm 1924, Nguyễn Ái Quốc đã sớm cho rằng: “Cách mạng thuộc địa không những không phụ thuộc vào cách mạng vô sản ở chính quốc mà có thể giành thắng lợi trước”, và “trong khi thủ tiêu một trong những điều kiện tồn tại của chủ nghĩa tư bản là chủ nghĩa đế quốc, họ có thể giúp đỡ những người anh em mình ở phương Tây trong nhiệm vụ giải phóng hoàn toàn”.
- Đây là một luận điểm sáng tạo, có giá trị lý luận và thực tiễn rất to lớn, một cống hiến rất quan trọng vào kho tàng lý luận Mác- Lênin, đã được thắng lợi của cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam chứng minh là hoàn toàn đúng đắn.

5) Cách mạng giải phóng dân tộc phải được thực hiện bằng con đường bạo lực, kết hợp lực lượng chính trị của quần chúng với lực lượng vũ trang trong nhân dân.

- Từ đầu năm 1924, Nguyễn Ái  Quốc đã đề cập khả năng một cuộc vũ trang khởi nghĩa ở Đông Dương.
- Tháng 5-941, tại Hội nghị lần thứ tám, Người đưa ra nhận định: Cuộc cách mạng Đông Dương kết liễu bằng một cuộc khởi nghĩa vụ trang, mở đầu có thể là bằng một cuộc khởi nghĩa từng phần trong từng địa phương... mà mở đường cho một cuộc tổng khởi nghĩa.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc

Thứ Ba, 25 tháng 11, 2014

câu hỏi ôn tập tư tưởng hồ chí minh

Sau đây là các câu hỏi ôn tập môn học tư tưởng hồ chí minh:

1 KHÁI NIỆM TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH - KHAI NIEM TU TUONG HO CHI MINH



NGUỒN GỐC HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH - TTHCM

Ý NGHĨA CỦA VIỆC HỌC TẬP NGHIÊN CỨU TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VẤN ĐỀ DÂN TỘC

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ GIẢI PHÓNG DÂN TỘC

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM

QUAN ĐIỂM CỦA HCM VỀ NỘI DUNG XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

10 TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠI ĐOÀN KẾT DÂN TỘC

11 TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠI ĐOÀN KẾT QUỐC TẾ

12 TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VĂN HÓA

13 TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠO ĐỨC

14 TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ XÂY DỰNG CON NGƯỜI MỚI

15 TÍNH NHÂN VĂN TRONG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

16 KHÁI NIỆM TƯ TƯỞNG VÀ TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

17 ĐỐI TƯỢNG VÀ NHIỆM VỤ CỦA MÔN HỌC TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

18 Ý NGHĨA CỦA VIỆC HỌC MÔN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

19 CƠ SỞ KHÁCH QUAN HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

20 NHÂN TỐ CHỦ QUAN HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

21 TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN THẾ GIỚI

22 VẤN ĐỀ DÂN TỘC TRONG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

23 CƠ SỞ LÝ LUẬN HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

Chúng tôi tiếp tục cập nhật các câu hỏi ôn tập tư tưởng hồ chí minh trong thời gian, mới các bạn chú ý chờ đọc.

câu hỏi ôn tập tư tưởng hồ chí minh

Thứ Sáu, 21 tháng 11, 2014

cơ sở lý luận hình thành tư tưởng hồ chí minh


Cơ sở lý luận: 
-   Nguồn gốc sâu xa là từ  truyền thống yêu nước của dân tộc Việt Nam, truyền thống nhân ái, và tinh thần cộng đồng làng xã Việt Nam,
được hình thành từ lâu đời trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc.
- Trước khi tiếp cận với Chủ nghĩa xã hội khoa học của Mác, Hồ Chí Minh đã từng biết đến tư tưởng Xã Hội Chủ Nghĩa sơ khai ở phương Đông, qua “thuyết đại đồng” của Nho giáo với các mệnh đề “dân vi quý”, “thiên hạ vi công”, “các tận sở năng”, “các thủ sở nhu”,… Về tổ chức kinh tế, ở phương Đông đã từng tồn tại hàng nghìn năm chế độ công điền, “tỉnh điền” là cơ sở kinh tế tạo nên sự cố kết cộng đồng bền chặt của người Việt Nam.
- Sau khi ra nước ngoài khảo sát các cuộc cách mạng thế giới, Nguyễn Ái Quốc đã thấy ở học thuyết của Mác lý tưởng về một xã hội nhân đạo, trong đó “sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện tự do cho tất cả mọi người”. Đã thấy trong Chủ Nghĩa Xã Hội của Mác con đường thực hiện ước mơ giải phóng của các dân tộc bị áp bức khỏi ách nô lệ.

cơ sở lý luận hình thành tư tưởng hồ chí minh

vấn đề dân tộc trong tư tưởng hồ chí minh


Vấn đề dân tộc trong tư tưởng Hồ Chí Minh được đề cập ở đây không phải là vấn đề dân tộc nói chung mà là vấn đề dân tộc thuộc địa trong thời đại cách mạng vô sản.

Vấn đề dân tộc thuộc địa thực chất là vấn đề đấu tranh giải phóng của các dân tộc thuộc địa nhằm thủ tiêu sự thống trị của nước ngoài, giành độc lập dân tộc, xóa bỏ ách áp bức bóc lột thực dân, thực hiện quyền tự quyết, thành lập nhà nước dân tộc độc lập.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc trong thời đại cách mạng vô sản được thể hiện trong mấy luận điểm cơ bản để giành độc lập và phát triển sau đây:

a) Độc lập tự do là quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm của tất cả các dân tộc.

Hồ Chí Minh đã từng nói: Cái mà tôi cần nhất trên đời là: đồng bào tôi được tự do, tổ quốc tôi được độc lập
- Trên đường tiếp cận chân lý cứu nước, Hồ Chí Minh đã tìm hiểu Tuyên ngôn độc lập 1776 của nước Mỹ, Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền 1791 của cách mạng Pháp và tiếp nhận những nhân tố có giá trị trong hai bản tuyên ngôn bất hủ ấy.
Tuyên ngôn độc lập của nước Mỹ 1776 có đoạn nói về quyền bình đẳng: "tất cả mọi người sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc".
Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của cách mạng Pháp: "người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi; và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi".
- Từ đó, Người đã khái quát nên chân lý bất di bất dịch về quyền cơ bản của các dân tộc: tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do.
- Năm 1919, vận dụng nguyên tắc dân tộc tự quyết đã được các nước đồng minh thừa nhận, Người gửi đến hội nghị hòa bình Véc xay bản yêu sách 8 điểm, đòi các quyền tự do dân chủ cho nhân dân Việt Nam.
Đây là hình thức thử nghiệm đầu tiên của Hồ Chí Minh về sử dụng pháp lý tư sản trong đấu tranh bằng phương pháp hòa bình. Bản yêu sách từ nội dung đến lời lẽ đều rất ôn hòa, chưa đề cập vấn đề độc lập hay tự trị, mà mới chỉ tập trung hai nội dung cơ bản:
- Một là đòi quyền bình đẳng về chế độ pháp lý cho người Đông Dương như đối với người Châu Âu (như xóa bỏ các tòa án đặc biệt dùng làm công cụ khủng bố, đàn áp những người yêu nước mà Hồ Chí Minh gọi là những người trung thực nhất trong nhân dân; xóa bỏ chế độ cai trị bằng sắc lệnh (một cách độc tài).
- Đòi các quyền tự do dân chủ tối thiểu cho nhân dân đó là các quyền tự do ngôn luận, báo chí, tự do lập hội, hội họp, tự do cư trú.
Mặc dầu vậy, bản yêu sách đã không được chấp nhận. Sự thật ấy đã giúp Nguyễn Ái Quốc rút ra bài học: "muốn được giải phóng, các dân tộc chỉ có thể trông cậy vào mình, trông cậy vào lực lượng của bản thân mình".
- Sau khi đã trở thành lãnh tụ có uy tín, tại hội nghị thành lập Đảng cộng sản Việt Nam do Người chủ trì đã xác định mục tiêu chính trị của Đảng trong chính cương vắn tắt và cả trong lời kêu gọi là:
a) Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến.
b) Làm cho nước Việt Nam hoàn toàn độc lập.
- Đầu năm 1941, Hồ Chí Minh về nước chủ trì hội nghị trung ương 8 của Đảng, Người chỉ rõ: "Trong lúc này quyền lợi dân tộc giải phóng cao hơn hết thảy". Người chỉ đạo thành lập Mặt trận Việt Minh, ra báo Việt Nam độc lập, thảo 10 chính sách của Việt Minh, trong đó mục tiêu đầu tiên là "cờ treo độc lập, nền xây hòa bình". Nội dung cơ bản của chính sách nhằm thực hiện hai điều: một là làm cho nước Việt Nam hoàn toàn độc lập, hai là làm cho dân Việt Nam hoàn toàn tự do. Người đã đức kết ý chí đấu tranh cho độc lập tự do của nhân dân ta trong một câu nói bất hủ: "Dù có phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết giành cho được độc lập".
- Cách mạng tháng tám thành công, Người đọc bản Tuyên ngôn độc lập, khẳng định trước thế giới và nhân dân: "Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và thật sự đã thành một nước tự do độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết tâm tất cả tinh thần và lực lượng, tình mệnh và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy".
Trong các bức thư và điện văn gởi tới Liên Hợp Quốc và chính phủ các nước vào thời gian đó, Người đã trịnh trọng tuyên bố rằng "Nhân dân chúng tôi thành thật mong muốn hòa bình. Nhưng nhân dân chúng tôi cũng kiên quyết chiến đấu đến cùng để bảo vệ những quyền thiêng liêng nhất: toàn vẹn lãnh thổ cho tổ quốc và độc lập cho đất nước".
- Kháng chiến toàn quốc bùng nổi thể hiện quyết tâm bảo vệ độc lập và chủ quyền dân tộc, Người ra lời kêu họi vang dậy núi sông: "Không! Chúng ta thà hi sinh tất cả chứ nhất định không chịu làm nô lệ".
- Khi đế quốc Mỹ điên cuồng mở rộng chiến tranh leo thang ra miền Bắc, chủ tịch Hồ Chí Minh lại đưa ra một chân lý bất hủ, có giá trị cho mọi thời đại: "Không có gì quý hơn độc lập tự do". Với tinh thần chiến đấu kiên cường của nhân dân ta buộc Mỹ phải ký hiệp định Pari, chấm dứt chiến tranh lập lại hòa bình ở Việt Nam, phải chấp nhận điều 1 của chương 1 nói về các quyền dân tộc vàu nhân dân Việt Nam: "Hoa Kỳ và các nước khác tôn trọng độc lập chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của nước Việt Nam như hiệp định Giơnevơ năm 1954 về Việt Nam đã công nhận".
Tóm lại, "Không có gì quý hơn độc lập tự do" không chỉ là tư tưởng mà còn là lẽ sống, là học thuyết cách mạng của Hồ Chí Minh. Đó là nguồn sức mạnh làm nên chiến thắng của sự nghiệp đấu tranh vì độc lập, tự do của Việt Nam, đồng thời cũng là nguồn động viên đối với các dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới. Vì vậy, Người không chỉ được tôn vinh là "Anh hùng giải phóng dân tộc" của Việt Nam mà còn được thừa nhận là "Người khởi xướng cuộc đấu tranh giải phóng của các dân tộc thuộc địa trong thế kỷ XX"

b) Ở các nước đấu tranh giành độc lập, chủ nghĩa dân tộc chân chính vẫn là một động lực lớn. 

Chủ nghĩa dân tộc ở đây theo Bác đó là chủ nghĩa yêu nước chân chính và tinh thần dân tộc trong sáng, là truyền thống quý báu từ rất lâu đời của dân tộc ta. Nó hòan tòan khác về chất so với chủ nghĩa dân tộc sô vanh, dị kỷ, bá quyền...

c) Kết hợp nhuần nhuyễn dân tộc với giai cấp, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa yêu nước với  chủ nghĩa quốc tế vô sản.

*Quan điểm cơ bản của Mac-Ănghen, Lênin về mối quan hệ biện chứng giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp:
Vấn đề dân tộc ở thời đại nào cũng được nhận thức và giải quyết trên lập trường và theo quan điểm của một giai cấp nhất định. Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác Lênin nhấn mạnh rằng: chỉ đứng trên lập trường của giai cấp vô sản và cách mạng vô sản mới giải quyết được đúng đắn vấn đề dân tộc.
Trong Tuyên ngôn Đảng cộng sản, Mác Ănghen đã đề cập mối quan hệ giai cấp và dân tộc. Các ông viết: Cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản nhằm lật đổ ách thống trị của giai cấp tư sản, ở giai đoạn đầu nó mang tính chất dân tộc, vì "Phong trào vô sản là phong trào độc lập của đại đa số". Vì vậy, "cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản chống lại giai cấp tư sản, dù về mặt nội dung, không phải là một cuộc đấu tranh dân tộc". Từ đó Mác kêu gọi: "giai cấp vô sản ở mỗi nước trước hết phải giành lấy chính quyền, phải tự vươn lên thành giai cấp dân tộc, phải tự mình trở thành dân tộc, tuy hoàn toàn không phải theo cái nghĩa như giai cấp tư sản hiểu".
Theo Mác Ănghen, trong thời đại ngày nay, chỉ có giai cấp vô sản mới thống nhất được lợi ích của giai cấp mình với lợi ích của nhân dân lao động và của cả dân tộc. Có triệt để xóa bỏ ách áp bức dân tộc, mới đem lại độc lập thật sự cho dân tộc mình và cho các dân tộc khác. Chỉ có giai cấp vô sản với bản chất cách mạng và sứ mệng lụch sử của mình mới có thể thực hiện được điều này. Chỉ có cuộc cách mạng do chính đảng của giai cấp vô sản lãnh đạo mới thực hiện được sự thống nhất giữa giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con người.
Tuy nhiên, ở thời đại Mác Ănghen, các ông không đi sâu giải quyết vấn đề dân tộc vì về cơ bản vấn đề dân tộc ở Tây Âu đã được giải quyết trong cách mạng tư sản; nhất là các ông chưa có điều kiện bàn nhiều về vấn đề dân tộc thuộc địa. Đúng như Lênin đã từng nhận xét, đối với Mác, so với vấn đề giai cấp vô sản thì vấn đề dân tộc chỉ là thứ yếu thôi.
Bước sang thời đại Lênin, chủ nghĩa đế quốc đã trở thành một hệ thống thế giới, cách mạng giải phóng dân tộc đã trở thành một bộ phận của cách mạng vô sản. Lênin mới có cơ sở thực tiễn để phát triển vấn đề dân tộc thuộc địa thành một hệ thống lý luận, được coi là học thuyết về cách mạng thuộc địa. Theo Lênin, cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản ở chính quốc sẽ không thể giành được thắng lợi nếu nó không biết liên minh với cuộc đấu tranh của các dân tộc bị áp bức ở thuộc địa. Từ đó, Người đã bổ sung khẩu hiệu của Mác thành "Vô sản toàn thế giới và các dân tộc bị áp bức, đoàn kết lại!". Đúng như Nguyễn Ái Quốc đã khẳng định: "Lênin đã đặt tiền đề cho một thời đại mới, thặt sự cách mạng trong các nước thuộc địa".
Tóm lại, Mác Ănghen, Lênin đã nêu ra những quan điểm cơ bản về mối quan hệ biện chứng giữa các vấn đề giai cấp, tạo cơ sở lý luận và phương pháp luận cho việc xác định chiến lược, sách lược của các Đảng Cộng sản về vấn đề dân tộc và thuộc địa. Tuy nhiên, xuất phát từ yêu cầu và mục tiêu của cách mạng vô sản ở Châu Âu, các ông vẫn tập trung nhiều hơn vào vấn đề giai cấp, vẫn "đặt lên hàng đầu và bảo vệ những lợi ích không phụ thuộc vào dân tộc và chung cho toàn thể giai cấp vô sản". Điều đó hoàn toàn đúng với đòi hỏi của thực tiến cách mạng vô sản ở Tây Âu đang đặt ra lúc bấy giờ.

*Tư tưởng Hồ Chí Minh:

Hồ Chí Minh đã tiếp thu lý luận về giai cấp và đấu tranh giai cấp của chủ nghĩa Mác Lênin. Khi viết rằng: "Sự nghiệp của người bản xứ gắn mật thiết với sự nghiệp của giai cấp vô sản toàn thế giới; mỗi khi chủ nghĩa cộng sản giành được chút ít thắng lợi trong một nước nào đó thì đó càng là thắng lợi cả cho người An Nam", tức là Người đã nhận thức được mối quan hệ chặt chẽ giữa dân tộc và giai cấp trong cách mạng giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng vô sản.
Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo lý luận Mác Lênin và quan điểm trên phù hợp với đặc điểm lịch sử xã hội của Việt Nam.
Diễn giảng về vận dụng sáng tạo của Hồ Chí Minh về vấn đề này bằng việc đưa ra các quan điểm của Mác Lênin:
Khi Mác Ănghen viết "Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản" là lúc mà đối kháng giai cấp trong thời đại tư sản ở châu Âu đã đơn giản hóa. "Xã hội ngày càng chia thành hai phe lớn thù địch với nhau, 2 giai cấp hoàn toàn đối lập nhau: giai cấp tư sản và giai cấp vô sản".
Vào sinh thời của Mác, Ănghen, hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa tư bản đã được mở rộng, nhưng các cuộc đấu tranh giành độc lập chưa phát triển mạnh, chưa có ảnh hưởng đến sự tồn tại và suy vong của chủ nghĩa tư bản. Trung tâm cách mạng thế giới vẫn ở châu Âu, vận mệnh của loài người vẫn được coi là phụ thuộc vào thắng lợi của cách mạng vô sản ở các nước tư bản công nghiệp phát triển. Do đó, tương lai của cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa cũng được nhìn nhận trong sự phụ thuộc vào thắng lợi của cách mạng vô sản ở chính quốc.
Trái lại, vấn đề đặt ra trước mắt cho các thuộc địa phương Đông không phải là làm ngay một cuộc cách mạng vô sản, mà trước hết là phải đấu tranh giành lại độc lập cho dân tộc, có độc lập dân tộc rồi mới có địa bàn để tiến lên làm cách mạng xã hội chủ nghĩa. Hơn nữa yêu cầu bức thiết của cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc không cho phép ỷ lại, ngồi chờ thắng lợi của cách mạng vô sản ở châu Âu để được trả lại nền độc lập cho các dân tộc thuộc địa. Từ thực tiễn đó, Hồ Chí Minh đi đến luận điểm: các dân tộc thuộc địa phải dựa vào sức của chính mình, đồng thời biết tranh thủ sự đoàn kết ủng hộ của giai cấp vô sản và nhân dân lao động thế giới để trước hết phải đấu tranh giành lại độc lập cho dân tộc, rồi từ đó tiến lên làm cách mạng xã hội chủ nghĩa và đóng góp thiết thực vào sự nghiệp cách mạng vô sản thế giới.
Qua đó có thể khẳng định ngay từ khi trở thành người Cộng sản, Hồ Chí Minh đã thực hiện được sự kết hợp đúng đắn dân tộc với giai cấp, chủ nghĩa yêu nước với cách mạng quốc tế, độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về kết hợp dân tộc với giai cấp, dân tộc với quốc tế, độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội được thể hiện ở những luận điểm sau đây:
- Chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc là một động lực lớn của đất nước.
+ Năm 1924, Nguyễn Ái Quốc viết: ở các nước thuộc địa “chủ nghĩa dân tộc là một động lực lớn của đất nước”. Chủ nghĩa dân tộc mà Nguyễn Ái Quốc nói ở đây chính là chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc chân chính của nhân dân Việt Nam đã được hun đúc qua hàng nghìn năm lịch sử, vốn là một động lực tinh thần vô giá trong các cuộc đấu tranh chống ngoại xâm, bảo vệ độc lập dân tộc. Nó khác về chất so với chủ nghĩa dân tộc Sôvanh, vị kỷ của giai cấp tư sản đã bị lịch sử lên án.
+ Theo phân tích của Nguyễn Ái Quốc, do kinh tế còn lạc hậu, chưa phát triển, nên sự phân hóa giai cấp ở Đông Dương chưa triệt để, cuộc đấu tranh giai cấp ở đây không diễn ra giống như ở Phương Tây.
Báo cáo về bản chất, tính chất Nguyễn Ái Quốc gởi Quốc tế Cộng sản:
Bởi vì xã hội Đông Dương, Ấn Độ hay Trung Quốc, xét “về mặt cấu trúc kinh tế, không giống các xã hội Phương Tây thời Trung cổ cũng như thời cận đại, và đấu tranh giai cấp ở đó không quyết liệt như ở đây”.
Nói về sự phân hóa giai cấp, Người chỉ rõ: “những địa chủ hạng trung và hạng nhỏ và những kẻ mà ở đó được coi là đại địa chủ thì chỉ là những tên luôn… bên cạnh những người trùng tên với họ ở châu Âu và châu Mỹ…”nếu như nông dân gần như chẳng có gì thì địa chủ không có vốn lũy gì lớn…, nếu thợ thuyền không biết mình bị bóc lột bao nhiêu thì chủ lại không hề biết công cụ để bóc lột của họ là máy móc;… sự xung đột về quyền lợi của họ được giảm thiểu. Điều đó không thể chối cãi được”. Trái lại giữa họ vẫn có một sự tương đồng lớn: dù họ là địa chủ hay người dân họ đều là người nô lệ mất nước. Chính vì thế mà có cuộc nổi dậy chống thuế năm 1908, có phong trào Đông Du…
  Từ luận điểm trên, Nguyễn Ái Quốc kiến nghị về cương lĩnh hành động của quốc tế Cộng sản: phát động cách mạng dân tộc bản xứ nhân danh quốc tế Cộng sản… khi cách mạng dân tộc thắng lợi… nhất định cách mạng dân tộc ấy sẽ biến thành cách mạng quốc tế.
- Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội:
Ngay từ khi gặp được luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa của Lênin, ở Hồ Chí Minh đã có sự gắn bó thống nhất giữa dân tộc và giai cấp, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
+ Trong bài “Cuộc kháng chiến” viết đầu những năm 20 của thế kỷ XX, Người đã khẳng định mối quan hệ này: “muốn giải phóng dân tộc trước hết phải giải phóng giai cấp, cả hai cuộc giải phóng này chỉ có thể là sự nghiệp của chủ nghĩa Cộng sản và cách mạng thế giới”.
+ Năm 1930, trong “Chính cương sách lược vắn tắt” Người đã xác định cách mạng Việt Nam trải qua hai giai đoạn: Làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội Cộng sản.
+ Năm 1960, Người khẳng định lại rõ hơn: “Chỉ có Chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ”.
+ Tư tưởng này của Hồ Chí Minh phản ánh quy luật khách quan của sự nghiệp giải phóng dân tộc trong thời đại cách mạng vô sản, vừa phản ánh mối quan hệ khăng khít giữa mục tiêu giải phóng dân tộc với mục tiêu giải phóng giai cấp và giải phóng con người.
Xóa bỏ áp bức dân tộc mà không xóa bỏ áp bức giai cấp thì nhân dân lao động vẫn chưa được giải phóng. Chỉ có thiết lập được chế độ sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất mới xóa bỏ được tận gộc tình trạng áp bức bóc lột; chỉ có thiết lập được một nhà nước kiểu mới (nhà nước của dân, do dân và vì dân) mới đảm bảo quyền làm chủ của người lao động, mới thực hiện được sự phát triển hài hòa giữa cá nhân và xã hội, giữa độc lập dân tộc với tự do hạnh phúc của con người. Người nói: “nếu nước độc lập mà dân không được hưởng hạnh phúc tự do thì độc lập cũng chẳng có ý nghĩa gì”. Do đó giành được độc lập rồi phải tiến lên chủ nghĩa xã hội. Vì chủ nghĩa xã hội là “làm sao cho dân giàu, nước mạnh”, “là mọi người được ăn no, mặc ấm, sung sướng, tự do”. Hơn nữa sự phát triển đất nước theo con đường của cách mạng xã hội là một đảm bảo vững chắc cho nền độc lập của dân tộc.
Vì vậy, Hồ Chí Minh nói: “Yêu tổ quốc, yêu nhân dân phải gắn liền với yêu chủ nghĩa xã hội, vì có tiến lên chủ nghĩa xã hội thì nhân dân mình mỗi ngày một no ấm thêm, tổ quốc mỗi ngày một giàu mạnh thêm”.
Kết luận: như vậy, đến Hồ Chí Minh, chủ nghĩa yêu nước truyền thống đã phát triển thành chủ nghĩa yêu nước hiện đại, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
- Độc lập cho dân tộc mình đồng thời độc lập cho tất cả các dân tộc:
+ Là một chiến sĩ quốc tế chân chính, Hồ Chí Minh không chỉ đấu tranh cho độc lập dân tộc mình mà còn đấu tranh cho độc lập của tất cả các dân tộc bị áp bức. Ở Hồ Chí Minh, chủ nghĩa yêu nước chân chính luôn luôn thống nhất với chủ nghĩa quốc tế trong sáng.
+ Hồ Chí Minh đã khẳng định: quyền tự do, độc lập là quyền bất khả xâm phạm của các dân tộc, “ dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”.
+ Ngay từ năm 1914, trên đất Anh, Người đã đem toàn bộ số tiền dành dụm từ đồng lương ít ỏi của mình ủng hộ quỹ kháng chiến của người Anh và nói với người bạn của mình rằng: “chúng ta phải đấu tranh cho tự do, độc lập của các dân tộc khác như là đấu tranh cho dân tộc ta vậy”.
+ Đầu năm 1930, sau khi chủ trì hợp nhất các tổ chức Cộng sản trong nước lại, Hồ Chí Minh đề nghị đặt tên Đảng là Đảng Cộng sản Việt Nam. Theo Người mỗi Đảng Cộng sản là thuộc về một dân tộc, trước hết phải chịu trách nhiệm trước dân tộc mình, bởi vì theo quan điểm chủ nghĩa Mác Lênin đã chủ trương dân tộc tự quyết thì cách mạng ở mỗi nước không thể do Đảng Cộng sản của nước khác áp đặt, làm thay.
+ Nêu cao tinh thần dân tộc tự quyết, nhưng Hồ Chí Minh vẫn không quên nghĩa vụ của mình trong việc gặp gỡ các Đảng Cộng sản anh em.
Người nhiệt liệt ủng hộ cuộc kháng chiến chống Nhật của nhân dân Trung Quốc, cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân dân Lào và Campuchia, đề ra khẩu hiệu “giúp bạn là tự giúp mình”, và chủ trương, phải bằng thắng lợi của cách mạng mỗi nước mà đánh vào thắng lợi chung của cách mạng thế giới.
Tóm lại, tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc vừa mang tình khoa học đúng đắn, vừa có tính chất cách mạng sâu sắc thể hiện sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa dân tộc và giai cấp, chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế trong sáng, độc lập cho dân tộc mình đồng thời độc lập cho tất cả các dân tộc. (Điều đó hoàn toàn phù hợp với nhận định của Ănghen: “Những tư tưởng dân tộc chân chính trong phong trào cách mạng bao giờ cũng là những tư tưởng quốc tế chân chính).

vấn đề dân tộc trong tư tưởng hồ chí minh

Tư tưởng Hồ Chí Minh đối với sự phát triển thế giới


a. Phản ánh khát vọng thời đại:

Hồ Chí Minh là nhân vật lịch sử vĩ đại, không chỉ là sản phẩm của dân tộc, của giai cấp công nhân Việt Nam mà còn là sản phẩm của thời đại, của nhân loại tiến bộ.
Bởi lẽ, Người có những cống hiến xuất sắc về lý luận cách mạng giải phóng dân tộc, giành độc lập dân tộc, tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội theo con đường cách mạng vô sản.

Việc xác định đúng đắn những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam và các vấn đề về chủ nghĩa xã hội và xây dựng chủ nghĩa xã hội; về hòa bình, hợp tác, hữu nghị giữa các dân tộc… có giá trị to lớn về mặt lý luận và đang trở thành hiện thực của nhiều vấn đề quốc tế ngày nay.

b. Tìm ra các giải pháp đấu tranh giải phóng loài người:

Đóng góp lớn nhất của Hồ Chí Minh đối với thời đại là việc xác định con đường cách mạng giải phóng các dân tộc thuộc địa thoát khỏi ách nô dịch của chủ nghĩa đế quốc. Các dân tộc thuộc địa cần phải đoàn kết, liên minh với nhau trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù chung là chủ nghĩa đế quốc.

Bên cạnh đó, Hồ Chí Minh còn nhận thức đúng sự biến chuyển của thời đại, đặc điểm của thời đại, đặt cách mạng giải phóng các dân tộc thuộc địa vào phạm trù cách mạng vô sản: xác định giai cấp lãnh đạo, phương pháp cách mạng và hướng phát triển của phong trào giải phóng dân tộc. Người khẳng định: “Trong thời đại đế quốc chủ nghĩa ở một nước thuộc địa nhỏ, với sự lãnh đạo của giai cấp vô sản và Đảng của nó, dựa vào quần chúng nhân dân rộng rãi, trước hết là nông dân và đoàn kết được mọi tầng lớp nhân dân yêu nước trong Mặt trân thống nhất, với sự đồng tình và ủng hộ của phong trào cách mạng thế giới, trước hết là của phe xã hội chủ nghĩa hùng mạnh, nhân dân nước đó nhất định thắng lợi”.

c. Cổ vũ các dân tộc đấu tranh vì những mục tiêu cao cả:

 Tư tưởng Hồ Chí Minh là ngọn cờ lý luận soi đường cho cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, xóa bỏ được mọi hình thức áp bức, bóc lột, xây dựng chủ nghĩa xã hội trên phạm vi cả nước.

Trong lòng nhân dân thế giới, Chủ tịch Hồ Chí Minh là bất diệt. Tư tưởng Hồ Chí Minh là nguồn cổ vũ đối với tất cả các dân tộc thuộc địa châu Á, châu Phi đứng dậy đấu tranh giải phóng khỏi ách áp bức bóc lột của đế quốc phong kiến, đấu tranh cho độc lập tự do. Tư tưởng Hồ Chí Minh đã chỉ đường cho các dân tộc đi tới thực hiện ước mơ cao đẹp của con người.

Tư tưởng Hồ Chí Minh đối với sự phát triển thế giới

Nhân tố chủ quan hình thành tư tưởng hồ chí minh


- Khả năng tư duy và trí tuệ Hồ Chí Minh.

 Trong quá trình tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh đã không ngừng quan sát,
nhận xét thực tiễn, khám phá các quy luật vận động xã hội, đời sống văn hóa và cuộc đấu tranh của các dân tộc trong hoàn cảnh cụ thể để khái quát thành lý luận, đem lý luận chỉ đạo hoạt động thực tiễn và được kiểm nghiệm trong thực tiễn, từ đó mà lý luận của Hồ Chí Minh mang giá trị khách quan, cách mạng và khoa học.

- Phẩm chất đạo đức và năng lực hoạt động thực tiễn.

Với bản lĩnh kiên định, luôn tin vào nhân dân; khiêm tốn, giản dị, ham học hỏi; nhạy bén với cái mới, có phương pháp biện chứng, có đầu óc thực tiễn, Hồ Chí Minh đã khám phá ra lý luận cách mạng thuộc địa trong thời đại mới. Kiên trì chân lý và định ra các quyết sách đúng đắn, sáng tạo để đưa cách mạng Việt Nam đến thắng lợi.

Sự khổ công học tập để chiếm lĩnh vốn tri  thức phong phú của thời đại, vốn kinh nghiệm đấu tranh của phong trào giải phóng dân tộc, phong trào chủ nghĩa quốc tế để có thể tiếp cận chủ nghĩa Mác-Lênin.

 Với tâm hồn của một nhà yêu nước chân chính, một chiến sĩ cộng sản nhiệt thành cách mạng, một trái tim yêu nước thương dân, Hồ Chí Minh sẵn sàng chịu đựng hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, hạnh phúc của nhân dân.

Nhân tố chủ quan hình thành tư tưởng hồ chí minh

Cơ sở khách quan hình thành tư tưởng hồ chí minh


a. Bối cảnh lịch sử hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh:

* Bối cảnh lịch sử Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX.

Năm 1858, trước sự xâm lược của thực dân Pháp, triều đình nhà Nguyễn lần lượt ký kết các hiệp ước đầu hàng, Việt Nam trở thành thuộc địa của thực dân Pháp.

Cho đến cuối thế kỷ XIX, dưới ách thống trị của thực dân Pháp, các phong trào đấu tranh của nhân dân nổ ra và lan rộng khắp cả nước. Các cuộc khởi nghĩa vũ trang dưới khẩu hiệu “Cần Vương” do các sĩ phu, văn thân lãnh đạo cuối cùng cũng thất bại. Hệ tư tưởng phong kiến đã tỏ ra lỗi thời trước các nhiệm vụ lịch sử.

Sang đầu thế kỷ XX, dưới chính sách khai thác thuộc địa của thực dân Pháp, xã hội nước ta có sự chuyển biến và phân hóa mạnh mẽ. Do ảnh hưởng của “Tân thư” ở Trung Quốc và trào lưu cải cách ở Nhật Bản, phong trào yêu nước của nhân dân ta chuyển dần sang xu hướng dân chủ tư sản. Đại biểu là Phan Bội Châu và Phan Chu Trinh, với phong trào Đông Du, Đông Kinh nghĩa thục, Duy tân… nhưng tất cả đều bị dập tắt do chưa có hướng đi đúng. Hệ tư tưởng tư sản cũng không lãnh đạo được phong trào chống Pháp.

Trước sự khủng hoảng sâu sắc về đường lối, sứ mệnh lịch sử đặt ra cho cả dân tộc Việt Nam là phải tìm con đường cứu nước đúng đắn. Phong trào yêu nước của nhân dân ta muốn giành thắng lợi phải đi theo một con đường mới.

* Bối cảnh thời đại:

Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, chủ nghĩa tư bản từ giai đoạn tự do cạnh tranh chuyển sang giai đoạn chủ nghĩa đế quốc. Chúng đã xác lập quyền thống trị trên phạm vi toàn thế giới. Chủ nghĩa đế quốc đã trở thành kẻ thù chung của các dân tộc thuộc địa.

Thắng lợi cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 đã làm “thức tỉnh các dân tộc Châu Á”. Cách mạng Tháng Mười Nga đã lật đổ nhà nước tư sản, thiết lập chính quyền Xô Viết, mở ra một thời kỳ mới trong lịch sử loài người, mở ra con đường giải phóng cho các dân tộc thuộc địa.

 Tháng 3 năm 1919 Quốc tế cộng sản (Quốc tế thứ 3) ra đời, chủ trương đoàn kết phong trào công nhân trong các nước tư bản chủ nghĩa Phương Tây và phong trào giải phóng thuộc địa phương Đông trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù chung là chủ nghĩa đế quốc.

b. Những tiền đề tư tưởng  - lý luận khách quan hình thành tưởng tử HCM:

* Giá trị truyền thống dân tộc:

Truyền thống yêu nước, kiên cường bất khuất; tinh thần tương thân tương ái, lòng nhân nghĩa, ý thức cố kết cộng đồng; ý chí vươn lên vượt qua mọi khó khăn thử thách; trí thông minh, tài sáng tạo quý trọng hiền tài, khiêm tốn… là tiền đề tư tưởng, Cơ sở khách quan hình thành tư tưởng hồ chí minh. Trong những giá trị đó, chủ nghĩa yêu nước là giá trị thiêng liêng cao quý nhất, trong lịch sử dân tộc Việt Nam.

Chủ nghĩa yêu nước có trong mỗi con người Việt Nam, là cội nguồn của trí tuệ sáng tạo và lòng dũng cảm của người Việt Nam và là chuẩn mực đạo đức cơ bản của cả dân tộc. Hồ Chí Minh đúc kết: “Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng,thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và cướp nước”

* Tinh hoa văn hóa nhân loại:

Văn hóa phương Đông: Hồ Chí Minh tiếp thu những mặt tích cực của Nho giáo. Đó là các triết lý hành động, tư tưởng nhập thế, hành đạo, giúp đời; đó là ước vọng về một xã hội bình trị, hòa mục, hòa đồng; là triết lý nhân sinh, tu thân dưỡng tính; đề cao văn hóa lễ giáo, tạo ra truyền thống hiếu học.

Hồ Chí Minh còn tiếp thu và chịu ảnh hưởng sâu sắc tư tưởng vị tha, từ bi bác ái, nếp sống có đạo đức, bình đẳng, dân chủ, đề cao lao động, chống lười biếng… của Phật giáo. Ngoài ra, Người còn tiếp thu tư tưởng của Lão Tử, Mạc Tử, chủ nghĩa Tam dân của Tôn Trung Sơn.

Văn hóa phương Tây: Hồ Chí Minh đã nghiên cứu tiếp thu những tư tưởng tiến bộ của nền văn hóa dân chủ và cách mạng phương Tây; những giá trị của bản Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của Đại cách mạng Pháp và các giá trị về quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc của Tuyên ngôn độc lập Mỹ.

* Chủ nghĩa Mác- Lênin:

Trước sự khủng hoảng về đường lối cứu nước của dân tộc, xuất phát từ lòng yêu nước, Nguyễn Tất Thành quyết định rời quê hương ra đi tìm đường cứu nước. Thực tiễn trong gần 10 năm tìm tòi, khảo nghiệm, nhất là sau khi đọc Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của V.I. Lênin (7/1920) Nguyễn Ái Quốc đã: “cảm động, phấn khởi, sáng tỏ, tin tưởng,…vui mừng đến phát khóc…” vì đã tìm thấy con đường giải phóng dân tộc. Như vậy, chính Luận cương của Lênin đã nâng cao nhận thức của Hồ Chí Minh về con đường giải phóng.

Chủ nghĩa Mác- Lênin là thế giới quan, phương pháp luận của tư tưởng Hồ Chí Minh. Thế giới quan và phương pháp luận Mác- Lênin đã giúp Hồ Chí Minh tổng kết kiến thức và kinh nghiệm thực tiễn để tìm ra con đường cứu nước. Đó là con đường cách mạng vô sản.

Hồ Chí Minh coi việc tiếp thu lý luận chủ nghĩa Mác-Lênin trước hết phải nắm vững phương pháp biện chứng; phải vận dụng lập trường, quan điểm và phương pháp của chủ nghĩa Mác- Lênin để giải quyết những vấn đề thực tiễn của cách mạng Việt Nam.

Cơ sở khách quan hình thành tư tưởng hồ chí minh

ý nghĩa của việc học môn tư tưởng hồ chí minh

1. Nâng cao năng lực, tư duy lý luận và phương pháp công tác.

Hiểu vai tró, vị trí, tác dụng của tư tưởng Hồ Chí Minh đối với cách mạng Việt Nam, từ đó tăng thêm lòng yêu quý lãnh tụ. Nâng cao tri thức khoa học xã hội – nhân văn, nâng cao trình độ lý luận và nhận thức

2. Bồi dưỡng phẩm chất đạo đức cách mạng và rèn luyện bản lĩnh chính trị.

Học tập tư tưởng Hồ Chí Minh giúp nâng cao lòng tự hào về Người, về Đảng Cộng sản và về Tổ quốc Việt Nam. Tích cực học tập và rèn luyện theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh để phụng sự đất nước, phụng sự nhân dân.

Đối tượng và nhiệm vụ của môn học tư tưởng Hồ Chí Minh

a. Đối tượng nghiên cứu:
Môn học Tư tưởng Hồ Chí Minh tập trung nghiên cứu:

- Hệ thống quan điểm của Hồ Chí Minh về cách mạng Việt Nam được thể hiện qua các bài nói, bài viết và trong quá trình chỉ đạo thực tiễn cách mạng Việt Nam của Hồ Chí Minh.
- Quá trình vận dụng thực hiện tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn cách mạng Việt Nam.

b. Nhiệm vụ nghiên cứu:

 Trên cơ sở đối tượng nghiên cứu, môn học Tư tưởng Hồ Chí Minh có nhiệm vụ làm rõ các nội dung sau:
- Cơ sở khách quan và chủ quan hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh.
- Quá trình hình thành, phát triển của tư tưởng Hồ Chí Minh.
- Nội dung của tư tưởng Hồ Chí Minh.
- Vai trò nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam hành động của tư tưởng Hồ Chí Minh đối với cách mạng Việt Nam.
- Quá trình nhận thức, vận dụng, phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh qua các giai đoạn cách mạng của Đảng và Nhà nước ta.
- Những đóng góp sáng tạo của Hồ Chí Minh vào kho tàng tư tưởng, lý luận cách mạng thế giới, đặc biệt là với chủ nghĩa Mác-Lênin.

Đối tượng và nhiệm vụ của môn học tư tưởng Hồ Chí Minh

Khái niệm tư tưởng và tư tưởng Hồ Chí Minh


Khái niệm tư tưởng:
Theo định nghĩa phổ thông nhất, tư tưởng là sự phản ánh hiện thực trong ý thức, là biểu hiện quan hệ của con người với thế giới xung quanh.


Khái niệm nhà tư tưởng:

Một người xứng danh là một nhà tư tưởng khi người đó biết giải quyết trước người khác tất cả những vấn đề chính trị - sách lược, các vấn đề về tổ chức, về những yếu tố vật chất của phong trào không phải một cách tự phát.

Khái niệm tư tưởng Hồ Chí Minh:

 Kế thừa kết quả nghiên cứu đã đạt được, dựa trên định hướng cơ bản của Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX, các nhà khoa học đã đưa ra định nghĩa chung nhất về khái niệm tư tưởng Hồ Chí Minh như sau: “Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, từ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân đến cách mạng xã hội chủ nghĩa; là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, đồng thời là sự kết tinh tinh hoa dân tộc là trí tuệ thời đại nhằm giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người”.
Thứ Bảy, 11 tháng 10, 2014

Tính nhân văn trong tư tưởng hồ chí minh


     Tư tưởng nhân văn của Hồ Chí Minh lúc đầu thể hiện ở những yêu cầu nhân bản bao quát nhất. Đó là tư tưởng đòi lại cho con người  những gì mà nó vốn có, trước hết là quyền được sống theo nghĩa “người ta sinh ra ai cũng có quyền sống, quyền mưu cầu hạnh phúc”.
Đất nước Việt Nam - cái nôi của con rồng cháu tiên, phải để cho người Việt Nam được gọi là Tổ quốc, chứ không cần đến một “mẫu quốc” bên phương Tây xa xôi tới “khai hoá”! Đã là con người  thì ai cũng có quyền làm người, quyền tự do, quyền sống bình đẳng. Phải trả lại độc lập cho nhân dân Việt Nam để họ làm chủđất nước mình, tự mình xây dựng cuộc sống. Đưa con người trở về với chính con người, đó là tư tưởng nhân bản cơ bản đầu tiên được hình thành trong con người Hồ Chí Minh. Trên cơ sởđó, Người kêu gọi xoá bỏ nô lệ, áp bức, bần cùng, đối xử với con người như là Con Người chân chính.

     Tư tưởng nhân văn của Hồ Chí Minh được nâng lên tầm cao hơn khi ở Người hội tụ những tư tưởng tiến bộ toàn nhân loại, trong đó có các hệ tư tưởng nhân văn Phục hưng, Khai sáng. Đặc biệt, tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh chỉ thật sự trở thành lý luận khoa học, trở thành học thuyết vững chắc khi Người thấm nhuần tư tưởng cộng sản chủ nghĩa của các lãnh tụ thiên tài là C. Mác, Ph. Ăng-ghen và V. I. Lênin.

     Thấm nhuần tư tưởng nhân văn cộng sản chủ nghĩa, Hồ Chí Minh tự nguyện đứng vào hàng ngũ những người cộng sản quốc tế, chiến đấu hi sinh cho lý tưởng nhân văn cộng sản chủ nghĩa. Và thực tế, Người đãtrở thành một trong những chiến sĩđi tiên phong trong cuộc đấu tranh lật đổ chế độ xã hội cũ, xây dựng chếđộ xã hội mới trên phạm vi toàn thế giới. Người quan tâm đến số phận từng con người , vận mệnh từng dân tộc, từng quốc gia khắp năm châu. Cuộc cách mạng mà người theo đuổi là cuộc đấu tranh giai cấp, lật đổ giai cấp bóc lột, giải phóng giai cấp bị bóc lột, đưa loài người tiến đến một xã hội tốt đẹp. Tư tưởng Hồ Chí Minh vì thế có tầm giai cấp quốc tế, tầm nhân loại.

     Hồ Chí Minh tiếp thu một cách sâu sắc lý tưởng cộng sản chủ nghĩa, lấy nguyên lý của chủ nghĩa cộng sản để thực hiện lý tưởng nhân văn cụ thể của con người: xoá bỏ xã hội cũ thối nát và phản nhân đạo để xây dựng một xã hội mới màởđó, người với người làđồng chí, bạn bè, anh em, sống hoà bình, hợp tác, hữu nghị trong thế giới đại đồng. Chính vì vậy khi Quốc tế II phân hóa thành nhiều khuynh hướng khác nhau, Người đã chọn Quốc tế III, vì nóđề ra mục tiêu đúng với tư tưởng của Người là chống phong kiến, đế quốc, giải phóng dân tộc, mà thực chất là giải quyết vấn đề dân tộc và thuộc địa - vấn đề bức xúc nhất, bản chất nhất của cách mạng thế giới lúc bấy giờ.

     Giải quyết vấn đề dân tộc và thuộc địa, theo Hồ Chí Minh không phải là nhiệm vụ cuối cùng, mà là khâu đột pháđể tiến tới giải quyết vấn đề cách mạng thế giới. Giải phóng từng dân tộc làđiều kiện cho việc giải phóng tất cả các dân tộc thuộc địa; giải phóng giai cấp vô sản làđểđi đến xã hội cộng sản chủ nghĩa. Mục tiêu đó quán xuyến toàn bộ sự nghiệp cách mạng của Người. Đó cũng là nền tảng cho tinh thần đoàn kết giữa các dân tộc toàn nhân loại trên cơ sở chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa Quốc tế chân chính. Giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội và giải phóng con người, theo Người, cũng chỉ mới là tiền đềđể thực hiện mục tiêu thiêng liêng nhất của con người là phát triển toàn bộ bản chất người  với mọi phẩm chất tốt đẹp, với mọi tiềm năng và năng lực sáng tạo cũng như khả năng hưởng thụ cao các giá trị văn hoá do chính mình sáng tạo ra.

     Chính với quyết tâm thực hiện lý tưởng nhân văn đó, Hồ Chí Minh có một thái độ hết sức khoan dung, độ lượng, một tinh thần đoàn kết, hoà hợp. Phê phán phản đối tư tưởng biệt phái, chia rẽ các tín ngưỡng tôn giáo trong nước và trên thế giới, Người tiếp thu tất cả tinh hoa trí tuệ, ước mơ, khát vọng chân chính của nhân loại nhằm đạt tới mục đích cuối cùng làđem lại hạnh phúc cho nhân dân. Người đã hội tụ những tinh hoa của tất cả các tư tưởng nhân văn của nhân loại, từ tư tưởng Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín, Dũng, Trung, Hiếu của đạo Nho, tinh thần từ bi, cứu nhân độ thế, phấn đấu đạt tới sự sáng láng của đạo Phật, đến ước mơ vươn tới một xã hội cao đẹp, con người hoàn thiện của đạo Thiên chúa. Người đã chắt lọc ưu điểm trong các học thuyết của Khổng Tử, Thích ca Mâu ni, Tôn Dật Tiên, Giê-su… Đặc biệt người đã tìm thấy ở học thuyết Mac-Lênin  nhân sinh quan cộng sản chủ nghĩa. Người nhận thấy rằng, ở tất cả các vị tiền bối đều có chung một ưu điểm là mưu cầu hạnh phúc cho con người. Công lao đó của Người, tự nóđã thể hiện một tinh thần, một bản chất nhân văn lớn lao, cao cả, vì cuộc sống tốt đẹp của con người, vì hạnh phúc và tiến bộ của nhân gian.

     Tư tưởng nhân văn của Hồ Chí Minh còn thể hiện một cách đặc sắc ở khát vọng và tinh thần quyết tâm biến tư tưởng thành hiện thực. Cốt lõi của thế giới quan duy vật, phương pháp luận khoa học và nhân sinh quan cộng sản chủ nghĩa được Hồ Chí Minh chuyển hoá thành một tổ hợp tư tưởng Mác - Lênin - Hồ Chí Minh  , rồi nó lại được thăng hoa, biến thành một chất tư tưởng mới rất riêng, trong đó có sự hoà quyện giữa chiều sâu lý luận và sinh khí cuộc sống. Tiếp thu bản chất khoa học và cách mạng, tinh thần cải tạo thế giới của chủ nghĩa Mác- Lênin, Người thực hiện khát vọng cháy bỏng của mình là biến tình thương người , tình yêu cuộc sống thành hành động.

     Lòng nhân ái Hồ Chí Minh bao la rộng, lớn bao nhiêu đối với nhân loại thì cũng sâu nặng bấy nhiêu đối với con người, dân tộc Việt Nam. Nhận nhiệm vụ từ Quốc tế cộng sản, trở về Tổ quốc, Người dành tất cả tình thương yêu cho dân tộc Việt Nam. Khi trở thành lãnh tụ của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà , Người không màng danh lợi cá nhân, suốt đời chăm lo cho hạnh phúc của nhân dân, cho sự trường tồn của dân tộc và sự phát triển của đất nước. Tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh bao quát toàn bộ cách mạng Việt Nam là giải phóng dân tộc, đem lại độc lập tự do cho Tổ quốc, hạnh phúc cho nhân dân. Tư tưởng đóđược kết tinh thành một tuyên ngôn bất hủ không chỉđối với nhân dân Việt Nam mà còn đối với toàn thể loài người tiến bộ: Không có gì quý hơn độc lập, tự do.

Để thực hiện lý tưởng nhân văn đó, Hồ Chí Minh đã vạch ra con đường đúng đắn cho cách mạng Việt Nam là “ Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội”. Giải phóng dân tộc là mục tiêu số một khi đất nước còn nô lệ. Vì vậy ham muốn tột bậc của Người là “làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do”. Độc lập, tự do trở thành bản chất cao quý trong tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh, trở thành ngọn cờ chiến đấu và mục tiêu suốt đời hi sinh cống hiến của Người. Bởi vìđó làđiều kiện tiên quyết đem lại hạnh phúc và tiến bộ cho nhân dân Việt Nam.

     Lý tưởng nhân văn đó được Hồ Chí Minh biến thành mục tiêu của cách mạng Việt Nam là xây dựng xã hội mới- xã hội xã hội chủ nghĩa. Với sức mạnh khoa học của chủ nghĩa Mac- Lênin, với niềm tin sắt đá vào tương lai vàý chí quyết tâm của người cộng sản, Người đã lãnh đạo nhân dân Việt Nam lam nên những chiến công hiển hách. Tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh thấm sâu trong đường lối của Đảng, trở thành ngọn cờ hướng dẫn nhân dân ta làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954 chấn động địa cầu vàđại thắnng mùa xuân 1975 thần thánh.

Đất nước giành được độc lập, dân tộc giành được tự do,nhiệm vụ trọng tâm của dân tộc Việt Nam là xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đó là lô-gích tất yếu của lý thuyết phát triển theo hướng nhân văn, vì chủ nghĩa xã hội là xã hội phù hợp nhất với bản chất con người, là xã hội tốt đẹp nhất mà loài người hằng vươn tới. Xã hội xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Người lãnh đạo toàn dân xây dựng không phải là thứ chủ nghĩa xã hội cực đoan, hẹp hòi, vị kỷ của một giai cấp, một đảng phái nào. Mục tiêu và phương thức tiến hành xây dựng chủ nghĩa xã hội của Hồ Chí Minh cũng không chỉ là chuyên chính, phá bỏ, cũng không phải là một cái gìđó mơ hồ, không tưởng như nhiều người, nhiều đảng đương thời trên thế giới quan niệm. Đó là chủ nghĩa xã hội hiện thực, cụ thể gắn liền với dặc điểm lịch sử, truyền thống văn hoá và bản sắc dân tộc. Chủ nghĩa xã hội mà người lãnh đạo ở Việt Nam là một xã hội mới công bằng, nhân đạo và tốt đẹp, nhằm mục tiêu cụ thể là: dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, con người hạnh phúc.

     Sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội do Hồ Chí Minh lãnh đạo thực sự là một cuộc cách mạng giải phóng và phát triển mọi tiềm năng của dân tộc, của xã hội, cụ thể là giải phóng và phát triển con người. Người luôn quan niệm rằng: “ Nếu nước độc lập mà người dân không hưởng hạnh phúc tự do thìđộc lập cũng chẳng cóý nghĩa gì”. Chính tấm lòng nhân hậu Hồ Chí Minh đãđúc kết nên tư tưởng nhân văn của Người: con người không chỉđược giải phóng về mặt xă hội, mà chủ yếu và cuối cùng là giải phóng và phát triển toàn bộ bản chất và bản tính tốt đẹp của mình. Bản chất sâu xa, lớn lao trong tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh là, tất cảđều vì sự phát triển con người Việt Nam: xoá bỏ tha hoá, trả lại cho con người phẩm chất Người, giải phóng toàn bộ tiềm năng, thể chất, trí tuệ, tài năng sáng tạo của con người, tạo mọi điều kiện cho con người phát triển toàn diện - hài hoà vềđức - trí - thể - mỹ . Với tinh thần đó, Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến thanh, thiếu niên. Vì thanh niên là:” người chủ tương lai của nước nhà”,”nước nhà thịnh hay suy, yếu hay mạnh một phần lớn là do các thanh niên”. Người yêu cầu Chính phủ phải chúýđặc biệt tới việc giáo dục thanh, thiếu niên về thể dục, đức dục và trí dục.

     Một điểm đáng được lưu ý là, tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh có tính vượt thời đại, đó là sự tuyệt đối tin tưởng vào thắng lợi ngày mai, lo cho tương lai của đất nước. Trong chiến tranh ác liệt, vận mệnh đất nước lâm nguy, nhưng với nhãn quan duy vật biện chứng, Hồ Chí Minh đã thấy trước thắng lợi tất yếu của cách mạng Việt Nam. Người luôn nghĩ tới vàđặt kế hoạch cho sự phát triển tương lai của đất nước. Người có kế hoạch đào tạo nhân tài cho đất nước, kể cảđào tạo ở nước ngoài. Trong hoàn cảnh đời sống vật chất còn rất nhiều khó khăn, Người vẫn quan tâm xây dựng đời sống văn hoá, phát triển khoa học kỹ thuật. Đặc biệt, Người rất quan tâm tới xây dựng và phát triển đời sống tinh thần của nhân dân. Theo Người, giá trị thiêng liêng nhất, cao quý nhất và trường tồn nhất của con người chính là giá trị tinh thần. Càng lùi xa chiến tranh, lùi xa đời sống vật chất khó khăn, thiếu thốn của quá khứ, chúng ta càng thấy tư tưởng đó của Người làđúng đắn và sẽ mãi giữ nguyên giá trị

Tính nhân văn trong tư tưởng hồ chí minh